- Đức Phật của chúng ta
- Vai trò của người có trí, của trí tuệ trong Đạo Phật
- Giới, Định, Tuệ con đường giáo dục chấm dứt đau khổ sanh tử luân hồi
- Chánh pháp và hạnh phúc
- Hội chúng tỳ kheo trong thời Đức Phật còn tại thế
- Kinh "Niệm hơi thở vô, hơi thở ra"
- Kinh Ví dụ con rắn
- Vấn đề tái sanh
- Ý nghĩa Phật thành đạo
- Người Việt Nam thương mẹ, kính cha qua ca dao, tục ngữ Việt Nam
- Sống theo lý tưởng Bồ Tát
- Đạo Phật và nếp sống thiên nhiên
- Năm giới, nếp sống lành mạnh, an lạc, hạnh phúc
- Ý đẹp với mùa xuân
- Một nền giáo dục toàn diện
- Dịch kinh và Đại học
- Chùa Việt Nam và mối liên hệ với nền văn hoá dân tộc
- Xuân về với những lời Phật dạy
CHÙA VIỆT NAM VÀ MỐI LIÊN HỆ
VỚI NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC
Thiền đường Trúc Lâm, chùa Trúc Lâm, nơi tôi có vinh dự và hân hạnh, qua lời mời của Thượng tọa Viện chủ Thích Thiện Châu, tiếp xúc và nói chuyện cùng quý vị là một ngôi chùa mới, một ngôi chùa Việt Nam nhưng xây dựng ở nước ngoài, ở nước Pháp, gần kinh đô Paris hoa lệ. Phải chăng đúng theo lời dự báo của Pháp sư Thái Hư khi qua thăm Việt Nam cách đây hơn nửa thế kỷ, trong câu đối Pháp sư tặng chùa Quán Sứ:
Pháp
luân tợ địa Đông Tây chuyển,
Phật
đạo phùng nguyên tả hữu thông.
Tạm
dịch:
Bánh
xe pháp giống như trái đất chuyển từ Đông sang Tây,
Đạo
Phật trở về nguồn sẽ thông suốt cả bên trái cũng như
bên phải.
Gần
đây, đọc báo tôi được biết ở các nước phương Tây,
đặc biệt là ở Mỹ, Cộng Hòa Liên Bang Đức, ở Anh, ở
Ý, Tây Ban Nha và một phần nào ở Pháp, có phong trào xây
dựng nhiều chùa Phật, Thiền viện. Thiền đường Trúc Lâm
của chúng ta là một trong những chùa và Thiền viện đó.
Phong trào hướng về đạo Phật ở các nước phương Tây
chứng tỏ tính thiết thực hiện tại, tính nhân bản mãi
mãi sống động của đạo Phật. Ngày nào mà loài Người
còn đau khổ, chưa được an lạc, thì loài Người còn cần
tới đạo Phật, là đạo diệt khổ và đem lại an lạc cho
loài Người, không kể đó là người phương Đông hay là phương
Tây.
Trong
câu đối của ngài Thái Hư có hai ý, Một ý là giáo pháp
của Phật luôn luôn chuyển, trong thời gian cũng như không
gian. Đó là sự phát triển của đạo Phật. Đó là đạo
Phật phát triển, và trong sự phát triển đó, nó không thể
không thích nghi với thời gian và không gian. Yêu cầu của
Chúng sinh nói chung, của Phật tử nói riêng, chung quy là thoát
khổ, được vui nhưng không thể mang nhiều màu nhiều vẻ
tùy theo thời gian và không gian. Do đó, đạo Phật phải phát
triển để thích nghi với những yêu cầu mới của thời gian
và không gian. Đó là lý do hình thành các bộ phái sau khi Phật
Niết Bàn 100 năm và cũng là lý do xuất hiện tư trào Đại
thừa giáo sau này. Thế nhưng, dù cây cổ thụ có lớn lên
và phát triển cành lá sum xuê như thế nào, thì nó cũng không
thể tách rời cái gốc rễ uyên nguyên của nó được. Đạo
Phật cũng thế, càng phát triển lại càng phải trở về nguồn
thì mới có thể đảm bảo một sự phát triển lành mạnh
đúng hướng, nhờ đó mà mãi mãi xanh tươi. Ngài Thái Hư
nói Phật đạo phùng nguyên, trở về nguồn là theo ý tứ
đó.
Phật
giáo Việt Nam ở hải ngoại có hai cội nguồn, một cội nguồn
là ở Ấn Độ, nơi đức Bổn Sư Thích Ca xuất thế. Ở đây,
như quý vị đều biết, vua Bimbisara, xứ Magadha sau khi được
nghe Phật thuyết pháp tại thành Vương Xá, đã cúng dường
Phật vườn Trúc Lâm, làm tinh xá để Phật và Tăng chúng
ở. Được vua hỏi về yêu cầu một tinh xá, Phật trả lời
là tinh xá phải ở vào nơi vắng vẻ không xa lắm, nhưng cũng
không quá gần thành phố, để cho dân chúng ai muốn, đều
có thể đến được, nhưng ban ngày không có quá đông người,
và ban đêm thì không quá ồn ào, một nơi thoáng mát . . .
Và vua Bimbisara thấy vườn Trúc Lâm rất thích hợp với tất
cả những yêu cầu của Phật đề ra cho một tinh xá. Và thế
là tinh xá Trúc Lâm được hình thành, là nơi Phật và Tăng
chúng đã trải qua sáu kỳ an cư kiết hạ, và là nơi Phật
giảng nhiều bài thuyết pháp quan trọng.
Thiền
đường Trúc Lâm của Thượng tọa Thích Thiện Châu và quý
vị cũng không quá xa, cũng không gần lắm kinh đô Paris, mong
rằng đạt được những yêu cầu của Phật Thích Ca đề
ra cho một tinh xá, hay một Thiền đường. Và tôi chân thành
và hoan hỷ cầu chúc cho Thiền đường Trúc Lâm của quý vị
làm tròn được sứ mệnh thiêng liêng. Một mặt phát triển
đạo Phật, khế hợp với căn cơ của thời hiện đại, mặt
khác đảm bảo bản chất trong sáng của đạo, khế hợp với
những lời dạy cơ bản của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Theo tôi, đó là cội nguồn thứ nhất của Phật giáo Việt
Nam ở hải ngoại. Còn cội nguồn thứ hai là Phật giáo Việt
Nam tại nước nhà. Một nền Phật giáo Việt Nam rất tự
hào về chiều dài lịch sử của nó hơn 18 thế kỷ, về truyền
thống dân tộc anh hùng của nó, về những thành tích võ công
văn trị của hai triều đại Phật giáo Lý và Trần, là thời
kỳ vẻ vang nhất, rực rỡ nhất của toàn bộ lịch sử của
dân tộc Việt Nam.
Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam mới được thành lập, mà
tôi có vinh dự được Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử làm
Viện trưởng đang tập trung mọi nỗ lực nghiên cứu để
làm sáng tỏ những đóng góp thiết thực của đạo Phật
Việt Nam vào lịch sử của dân tộc Việt Nam, đặc biệt
là thời lịch sử vẻ vang của hai triều đại Lý, Trần.
Tôi
không rõ lắm ý tứ của Thượng tọa Thích Thiện Châu yêu
cầu tôi nói chuyện về các chùa cổ Việt Nam. Phải chăng
đó cũng là yêu cầu của tất cả Phật tử Việt kiều ở
Pháp, trong dịp lễ Khánh thành ngôi Thiền viện Trúc Lâm mới
mẻ, xinh đẹp này, luôn luôn hướng về nền Phật giáo cổ
kính của Việt Nam, những ngôi chùa cổ ở Việt Nam mà do
tính chất lịch sử và dân tộc lâu đời không có một kiến
trúc sư hiện đại, tài ba nào ở Pháp có thể xây dựng lại
được. Tất nhiên, chùa Trúc Lâm của quý vị có vẻ đẹp
thanh xuân của nó, nhưng chùa Trúc Lâm ở Huế là vườn tre
vườn trúc. ở gần Paris làm sao có tre, có trúc, mà chỉ có
cây maronniers. Nhưng chùa Trúc Lâm ở Huế nơi trụ trì hiện
nay của Hòa thượng Phó Pháp chủ Mật Hiển, có thể nói
là núp bóng trong vườn trúc dày đặc. Chùa Trúc Lâm ở đây
mặc dù khá cách xa kinh đô Paris ồn ào và hoa lệ, nhưng vẫn
không có được bầu không khi yên tĩnh, trầm lặng của vùng
đồi Nam Giao gần cố đô Huế. Chùa Trúc Lâm ở Huế hiện
còn giữ được bảo vật từ thời Tây sơn, kinh Kim Cang Bát
nhã dệt trên gấm, theo truyền thuyết là do chính công chúa
Ngọc Hân, vợ Nguyễn Huệ thêu.
Ở
Huế, ngoài chùa cổ Trúc Lâm ra, còn có nhiều chùa cổ khác,
đặc biệt là chùa Thiên Mụ, nơi trụ trì hiện nay của Hòa
thượng Thích Đôn Hậu, Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo
Việt Nam.
Gió
đưa cành trúc la đà,
Tiếng
chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Chuông
Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với tiếng ngân vang xa rộng
của nó. Quả chuông này do chúa Hiến Tông (Nguyễn Phúc Chu)
cấp tiền đúc vào năm Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên
Mụ biểu trưng cho sự hiện diện của Phật giáo hằng ngày,
sớm và chiều tại cố đô Huế, trong lòng mỗi người dân
tại cố đô Huế. Thiên Mụ là bà lão nhà Trời. Theo truyền
thuyết, Cao Biền khi làm An Nam đô hộ phủ ở nước ta, dưới
đời nhà Đường, theo lệnh vua Đường là Đường ý Tôn
(860-873), đã đi khắp nơi ở nước ta, tìm những nơi đất
tốt có vượng khí, đều lập phép trấn yểm. Cao Biền đã
đến Thuận Hóa, xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa
đồng bằng đột khởi một cái đồi hình đầu rồng, biết
là nơi linh địa, bèn cho đào hào cắt ngang dưới chân đồi.
Đêm đến, Biền mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi
dưới chân đồi than vãn và nói to: “Đời sau, nếu có bậc
minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh khí
cho đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở đây...”
Nguyễn
Hoàng khi vào Thuận Hóa, tìm cách gây dựng thế lực, để
biệt lập và chống đối với họ Trịnh, đã đến nơi này,
nghe các bô lão kể lại câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền,
thì rất mừng, lập tức cho xây chùa trên núi, và tự tay
viết biển chùa là “Thiên Mụ tự” (chùa Thiên Mụ - chùa
bà lão nhà Trời).
Người
Việt Nam bình thường tin ở thuật phong thủy, nhưng đồng
thời cũng tin ở Phật, Bồ-tát, và đạo Phật. Cao Biền có
tài trấn yểm, nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là
mọi phép yểm của Cao Biền đều bị phá hết. Ảnh hưởng
của chùa Phật là ảnh hưởng của Tam Bảo, của đức Phật
thường trú, của Chánh pháp mà bánh xe luôn luôn chuyển động,
của Tăng là những người có trách nhiệm duy trì và hoằng
dương Chánh pháp tại thế gian này.
Ở
cố đô Huế, ngoài hai chùa Trúc Lâm và Thiên Mụ, còn có
một số chùa cổ khác như chùa Diệu Đế, chùa Quốc Ân,
chùa Từ Đàm, chùa Báo Quốc, chùa Tường Vân, chùa Thuyền
Tôn v.v. . . phần lớn tọa lạc ở bờ phải sông Hương.
Thế
nhưng trong cả nước, thì số chùa cổ tập trung nhiều hơn
cả là ở miền Bắc, nơi có trung tâm Phật giáo và Phật
học Luy Lâu nổi tiếng, với những cao Tăng xuất phát từ
đây sang giáo hóa ở miền Nam Trung Hoa, nơi đã tổ chức dịch
bộ kinh xưa nhất trong văn hệ Bát-nhã, tức bộ Bát Thiên
Tụng Bát-nhã và nhiều bộ kinh Đại thừa khác.
Trong
đó thì bộ kinh thuộc văn hệ Bát-nhã, được Lokasema, người
đồng đại với An Thế Cao dịch vào năm 172 T.L. lại là cuốn
Astadasasahasrika (18.000 tụng), không phải là bộ xưa nhất.
Một sự kiện nữa đáng chú ý là cuốn kinh Kim Cương Bát-nhã
được Thiền sư Việt Nam Thanh Biện, thuộc thế hệ thứ
tư dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, trì tụng hằng ngày phải
xuất hiện sớm hơn non hai thế kỷ so với cuốn kinh Kim Cương
Bát-nhã được ấn tống lần đầu tiên ở Trung Hoa vào năm
868, tháng 5 ngày 11. Lịch sử ngành in thế giới ghi nhớ ngày
này, như là ngày cuốn sách in đầu tiên ra đời, mà đó lại
là một cuốn kinh Phật. Thế nhưng, theo cuốn “Thiền Uyển
Tập Anh” cuốn lịch sử Phật giáo xưa nhất, viết vào đời
Trần, thì Thanh Biện tịch vào năm 686, do đó điều chắc
chắn là Thanh Biện đã sử dụng một bản kinh Kim Cương khác,
có thể là đã được chuyển thẳng từ Nam Ấn Độ sang,
và được dịch ở Việt Nam, bởi những cao Tăng Việt Nam
thông cả chữ Phạn và chữ Hán.
Chi
tiết trên tuy nhỏ, nhưng đủ nói lên tính xa xưa của đạo
Phật Việt Nam, của Trung tâm Phật học Luy Lâu, và của những
chùa tháp Việt Nam được xây dựng vào thời bấy giờ mà
kiến trúc và điều khắc chắc là mang dấu ấn ảnh hưởng
của Ấn Độ, nhiều hơn là của Trung Hoa. Những chùa tháp
Việt Nam đó hiện nay không còn nữa, thế nhưng bóng dáng
của chúng, ảnh hưởng của chúng tiếp tục lưu lại phảng
phất trong các chùa tháp đời Lý và đời Trần.
Chùa
tháp đời Lý Trần hẳn là đã được xây dựng khá phổ
biến, và có quy mô khá to lớn, cho nên Lê Văn Hưu, sư gia
đời Trần nói về chùa tháp đời Lý, đã có những câu như:
“Xây
chùa cao ngất trời, trồng cột chùa đá chạm, chùa Phật
lộng lẫy hơn cả cung vua, dân quá nửa là Sư sãi, khắp nước
chỗ nào cũng chùa chiền...” (Thơ Văn Lý Trần tập II - 368).
Rất
có thể là Lê Văn Hưu muốn nói tới hai ngọn tháp mà Lý
Thánh Tông cho xây, một ở Thăng Long (Hà Nội), tức la tháp
Báo Thiên, và hai là tháp Lạn Kha ở chùa Phật Tích và một
số tháp khác nay đều không còn nhưng được nhắc tới trong
sách sử với những thông số chiều cao làm chúng ta ngạc
nhiên, và không thể không đặt câu hỏi: Tháp chùa Phật Tích
cao ngàn trượng? Tháp chùa Báo Thiên cao vài mươi trượng,
cột đá ở chùa Một Cột Hà Nội cao 10 trượng, tháp Chương
Sơn còn để lại cạnh chân dài 19 mét. Nếu tính đại khái
3 trượng bằng 1 mét Tây, thì độ cao của các tháp đời
Lý quả là đáng kể vậy. Tương truyền, khi tháp Phật Tích
đang còn, thì từ ở Thăng Long (Hà Nội), người ta có thể
nhìn thấy đỉnh tháp Phật Tích.
Tháp
Báo Thiên dựng ở chùa Sùng Khánh Thăng Long do sắc chỉ vua
Lý Thánh Tông, năm Long Thụy Thái Bình thứ năm (l056) là một
ngọn tháp 12 tầng, cao hơn 80 mét, vốn dược vua đặt tên
là Đại Thắng Thiên Bảo Tháp, gọi tắt là tháp Báo Thiên.
Ngày xưa, nói tới bốn công trình kiến trúc và điêu khắc
lớn của Việt Nam, thì tháp Báo Thiên là một. Khi tướng
nhà Minh, Vương Thông bị quân của Lê Lợi - Nguyễn Trãi vây
hãm trong kinh thành, Vương Thông đã cho dỡ phá tháp Báo Thiên,
lấy vật liệu để xây công sự (1414). Nền tháp to rộng
không khác gì ngọn đồi. Đến thế kỷ 18 (1791), người ta
đào được ở đây, tám pho tượng Thần Kim Cương, chia đứng
trấn 4 cửa, những tượng người, tiên, chim muông, giường
ghế đều bằng đá nhiều không kể xiết” (theo sách Tang
Thương Ngẫu Lục).
Chóp
tháp bằng đồng, tương truyền là do sư Không Lộ đời Lý
vẽ kiểu và đúc, với số đồng do Sư dùng phép thần thông
lấy được trong kho của vua nhà Tống ở tận Nam Kinh. Số
đồng lấy về nhiều đến nỗi sư Không Lộ còn dùng để
tạc tượng Phật ở chùa Quỳnh Lâm, đúc chuông Quy Điền
cho chùa Diên Hựu, và vạc ở chùa Phổ Minh. Đó là bốn công
trình điêu khắc lớn nhất, đẹp nhất, nổi tiếng nhất
thời bấy giờ, gọi là “Việt Nam Tứ Đại Khí”, và do
một tay sư Không Lộ làm ra cả. Một Thiền sư đồng thời
là một kiến trúc sư, một thợ đúc đồng có kỹ thuật,
sau này được ngành đúc đồng Việt Nam suy tôn là Tổ đúc
đồng của Việt Nam, và có đền thờ tại phường Lò Đúc
Hà Nội. Vâng, chỉ là huyền thoại, nhưng nó cho thấy các
Tăng sĩ Việt Nam thời Lý có nhiều tài, nhiều nghề, và giúp
ích nhiều và thiết thực cho cuộc sống của người dân.
Bài
thơ vịnh tháp Báo Thiên của Nho sĩ Phạm Sư Mạnh cũng cho
chúng ta một ý niệm về độ cao của tháp, cũng như kiến
trúc tráng lệ của nó:
“Trấn
áp Đông Tây giữ đế đô,
Hiên
ngang một tháp đứng trơ vơ,
Non
sông vững chãi tay trời chống,
Kim
cổ không mòn đỉnh tháp nhô,
Thỉnh
thoảng gió lay chuông ứng đáp,
Đến
đây những muốn đầu ngòi bút,
Chiếm
lấy sông xuân làm mực đề thơ...”
Những
câu như
“Non
sông vững chãi tay trời chống,
Kim
cổ không mòn đỉnh tháp nhô”.
Hay
là câu:
“Trấn
áp Đông Tây giữ đế đô”.
Không
những gợi cho chúng ta một ý niệm về quy mô của tháp, mà
cả về vị trí, vai trò của đạo Phật như là một Quốc
giáo, bảo vệ quốc gia và dân tộc.
Chừng
nào mà những tư tưởng cơ bản của giáo lý đạo Phật như
lòng từ, lòng bi, hạnh trí tuệ, hạnh hiếu sinh và hiếu
hòa, hạnh vô ngã vị tha vẫn còn là những yếu tố cấu
thành khắng khít của truyền thống văn hóa của dân tộc
Việt Nam, chừng nào mà đạo Phật Việt Nam còn hòa quyện
với dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam như là nước
với sữa, thì đạo Phật cũng sẽ tồn tại vĩnh cửu như
là dân tộc Việt Nam vậy.
Câu
thơ của Phạm Sư Mạnh:
“Thỉnh
thoảng gió lay chuông ứng đáp”.
Cho
thấy tháp Báo Thiên có mắc nhiều chuông nhỏ, mỗi lần có
gió thoảng qua là có tiếng thuông reo, như là tiếng nhạc
Trời. Kiểu trang trí chuông nhỏ như thế này không còn thấy
ở các chùa Việt Nam hiện nay nữa, nhưng chắc là có phổ
biến ở các chùa đời Lý, và có thể là một kiểu trang
trí du nhập từ Ấn Độ. Khi qua Ulan Ude, thủ đô nước Cộng
hòa Xã hội Chũ nghĩa tự trị Bouriate (Thuộc Liên Xô cũ)
tôi thấy các chùa lớn ở đây đều có trang trí chuông nhỏ
như vậy trên các tháp chùa màu vàng óng ánh rất đẹp, và
mỗi lần có làn gió thổi qua, dù là nhẹ, chúng ta lại nghe
tiếng chuông reo không khác gì nhạc Trời.
Dân
gian có câu:
Đất vua chùa làng, phong cảnh Bụt.
Phong
cảnh Bụt là phong cảnh đẹp, nhưng không chỉ đẹp mà còn
có chùa, có Tăng Ni, có tiếng chuông mõ tụng kinh, thập phương
tín đồ dập dìu cho nên gọi là phong cảnh Bụt chăng? Hay
là phong cảnh Bụt chỉ cho một phong cảnh đẹp một cách
siêu thoát, xa trần tục.
Nhưng
có điều chắc là ở nước ta, đặc biệt là ở miền Bắc
việt Nam, những nơi nào là cảnh đẹp đều có chùa. Chùa
hòa mình vào thiên nhiên, làm cho thiên nhiên thêm đẹp một
vẻ đẹp sinh động nhưng vẫn siêu thoát. Hợp từ danh lam
thắng cảnh, rất thông dụng ở Việt Nam hiện nay thấy nơi
nào đã là thắng cảnh là có danh lam, tức là chùa danh tiếng.
Tất nhiên, lập chùa trước hết là do nhu cầu tín ngưỡng
của dân chúng, cho nên ở Việt Nam có nhiều chùa làng, chùa
chợ, chùa ở đô thị v.v. . . Chùa Việt Nam không những hòa
mình vào thiên nhiên, mà còn hòa mình vào dân chúng dân tộc.
Vì chùa dựng lên là để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của
dân chúng, cho nên, chỉ trừ một vài ngoại lệ hiếm có,
còn thì các chùa đều do dân chúng góp công góp của mà lập
thành. Vị Tăng sĩ trụ trì thường chỉ đóng vai trò hóa
quyên và điều khiển việc tôn tạo. Bởi lẽ, người dân
Việt Nam tin rằng xây chùa, ấn tống kinh sách Phật là một
công đức lớn, đồng thời chùa đối với họ là trung tâm
của cuộc sống tâm linh, mà họ rất xem trọng hơn cả cuộc
sống vật chất của họ nữa. Đó là lý do chùa trở thành
một cảnh quan kiến trúc phổ biến ở nước ta, rất tiêu
biểu cho đất nước và dân tộc ta. Hai câu thơ dân dã:
Mái
chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp
sống muôn đời của tổ tông.
Đủ
nói lên vì sao người dân Việt Nam yêu quý và coi trọng chùa
chiền. Thái độ của người dân Việt Nam, ngay những Nho sĩ
kích bác đạo Phật nặng nề nhất cũng bắt buộc phải thừa
nhận. Nho gia Lê Quát viết trên văn bia chùa Thiên Phúc ở
Bắc Giang như sau:
“Học
Phật lấy điều họa phước làm động lòng người, sao mà
sâu xa bền chắc đến thế. Trên từ vương công, dưới đến
thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về việc Phật, tuy đem hết
gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để làm
chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ như trong tay đã cầm được
cái biên lai để ngày sau đi nhận được số tiền trả báo
lại. Cho nên trong từ kinh thành, ngoài đến châu phủ, đường
cùng ngõ hẻm, chẳng khiến mà theo, chẳng thể mà tin, hễ
chỗ nào có nhà người ở thì có chùa Phật. Bỏ đi thì làm
lại, hư đi thì sửa lại. Lâu đài chuông trống cũng bằng
phân nửa nhà thiên hạ ở...”
Tôi
cho rằng, cho đến nay, chưa có một bài văn bia nào nói lên
được một cách sinh động hơn tính phổ cập của tín ngưỡng
Phật giáo trong nhân dân Việt Nam bằng bài văn bia của Lê
Quát, một Nho sĩ không tán thành Phật giáo và kích bác Phật
giáo. Tất nhiên, ngày nay Phật giáo không còn có vị trí quốc
giáo như dưới hai đời Lý và Trần nữa. Nhưng cái hạt giống
tin Phật, một Phật, trân trọng Tam Bảo từ lâu đã nảy
mần, có gốc rễ sâu bên trong lòng người dân Việt Nam.
Như
quý vị đều biết, một số chùa cổ ở miền Bắc như chùa
Một Cột, chùa Vĩnh Nghiêm đã được xây lại mới ở trong
Nam, như chùa Nhất Trụ (Một Cột) ở Thủ Đức, chùa Vĩnh
Nghiêm ở giữa trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Chùa
Vĩnh Nghiêm ở Hà Bắc vốn xây dựng từ thời nhà Lý, về
sau trở thành một Tổ đình lớn của phái Trúc Lâm Yên Tử
dưới đời nhà Trần.
Khách
hành hương từ Hà Nội lên Yên Tử thường dừng chân ở
chùa Vĩnh Nghiêm. Từ khi Pháp Loa, vị Tổ thứ hai của phái
Thiền Trúc Lâm đế trụ trì chùa, thì chùa Vĩnh Nghiêm trở
thành một trung tâm Phật giáo danh tiếng của Giáo hội Trúc
Lâm. Từ đây và ở đây, Tôn giả Pháp Loa đã có những quyết
định quan trọng chấn chỉnh Tăng đoàn, như ba năm một lần
tổ chức sát hạch Tăng sĩ, người tuy đã thụ giới nhưng
tỏ ra không đủ tư cách và học vấn đều không được cấp
lại độ điệp, tức một loại chứng minh thư của Tăng sĩ
thời bấy giờ. Chính Huyền Quang, sau này trở thành vị Tổ
thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, khi còn là Trạng nguyên và
làm quan, đã từng theo vua Trần Nhân Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm
nghe Pháp Loa thuyết pháp, được giác ngộ và xin phép vua cho
từ quan xuất gia. Trong dân gian có câu:
“Ai
qua Yên Tử Quỳnh Lâm,
Vĩnh
Nghiêm chưa tới, Thiền tâm chưa đành”.
Bản
thân tôi đã từng được đến viếng ngôi chùa cổ này, được
chiêm ngưỡng tượng ba vị Tổ của phái Thiền Trúc Lâm,
được nhìn nhiều bức chạm gỗ rất có giá trị nghệ thuật,
cũng như nhiều bản khắc các bộ kinh Đại thừa quan trọng,
như kinh Hoa Nghiêm v.v. . . đều là những bảo vật của chùa.
Chính
Trúc Lâm đệ tam Tổ Huyền Quang cũng đã có thơ vịnh chùa
Diên Hựu tức chùa Nhất Trụ hay chùa Một Cột, một kiến
trúc độc đáo của Phật giáo đất Thăng Long. Thiền sư thi
sĩ đã tả cảnh chùa dưới trăng thu, trên hồ lạnh, giữa
tiếng chuông ngân. Chùa Vĩnh Nghiêm cũng như chùa Nhất Trụ
tại Thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng vì kiến trúc đặc
biệt của nó, và cũng nổi tiếng vì kế thừa nét kiến trúc,
Thiền vị và tên gọi của hai danh lam cổ tự tại Thăng Long.
Nói
đến các chùa cổ ở miền Bắc, không thể nào không nhắc
tới cụm chùa trên núi Yên Tử.
Tôi
có đọc bài giới thiệu cụm chùa núi Yên Tử của cụ Hoàng
Xuân Hãn, đăng trong Tập San Khoa Học Xã Hội số 5 năm 1978,
do Hội Khoa Học Xã Hội Việt Nam tại Pháp xuất bản. Sau
khi giới thiệu khá chi tiết các chùa, am, tháp trên núi Yên
Tử, cụ Hoàng Xuân Hãn đặt vấn đề nên có kế hoạch “bảo
tồn, tu chỉnh và tái tạo hệ thống kiến trúc và sử học
Yên Tử như một cao điểm của văn hóa Việt Nam, cùng các
vị trí gần như Côn Sơn, Kiệt Đặc v.v...” Cụ gợi ý là
“cùng với vịnh Hạ Long ở kề phía Đông, Yên Tử có thể
tạo thành mội hệ thống du quan quốc tế và quốc nội”.
Cụm
chùa Yên Tử là biểu trưng sinh động của phái Thiền Trúc
Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông thành lập và làm sơ Tổ.
Còn các phái Thiền trước đó đều do những người ngoại
quốc hoặc Ấn Độ hay Trung Hoa thành lập và làm sơ Tổ.
Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, với vua Trần Nhân Tông không
những đã kế thừa, và tiếp thu có chọn lọc sáng tạo tất
cả những gì tinh hoa nhất, tích cực nhất của các phái Thiền
trước đó, mà còn khéo kết hợp một cách thật sự nhuần
nhuyễn nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân với nhu cầu chính
trị bảo vệ nền độc lập quốc gia và dân tộc. Tôi nghĩ
rằng, nếu Trần Nhân Tông và Giáo hội Trúc Lâm không làm
tốt được sự kết hợp đó, thì dân tộc chúng ta ắt khó
chiến thắng được quân xâm lược Nguyên Mông, đặc biệt
là trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ
hai, mà Trần Nhân Tông phải đích thân chỉ đạo. Tư tưởng
chủ đạo của Thiền đời Trần sớm đã do Quốc sư Trúc
Lâm nói với vua Trần Nhân Tông, khi vua Thái Tông lên núi Yên
Tử, muốn xuất gia cầu Phật.
“Sơn
bổn vô Phật, duy tồn hồ tâm. Tâm tịch nhi tri, thị danh
chân Phật”. Nghĩa là “Trong núi vốn không có Phật, Phật
chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà biết, đó là Phật thật”.
Nói cách khác, hãy tu tập tâm, rèn luyện tâm để tâm trở
thành vắng lặng, sáng suốt thì sẽ thành Phật, chứ không
nhọc cầu ở đâu bên ngoài, dù là ở trên núi, trong chùa
hay là trong kinh sách. Chùa hay kinh sách chỉ là phương tiện
dẫn tới Phật, chứ không phải là Phật thật. Phật thật
chính là lòng mình, được làm cho vắng lặng và sáng suốt.
Muốn cho lòng được vắng lặng và sáng suốt, thì phải sống
nếp sống đạo đức Phật giáo, giữ năm giới, mười thiện,
thấy vị ngọt nhưng cũng thấy mối nguy của các dục vọng,
sống luôn chánh niệm tỉnh giác, sống giữa đời mà không
lụy với đời, giữa thanh sắc mà không vướng mắc thanh
sắc, đúng như trong kinh Kim Cang nói:
“Ưng vô sờ trụ nhi sanh kỳ tâm”
Nghĩa
là tâm của người ngộ đạo không trụ, không chấp trước,
không vướng mắc vào thanh sắc, vào ngoại trần, nhờ đó
mà được hoàn toàn tự do, tự tại, thật sự giải thoát,
đạt tới sự vắng lặng sáng suốt của bậc Thánh. Tâm vắng
lặng sáng suốt, đó là bí yếu nên sức mạnh của Phật
giáo đời Trần, sức mạnh của dân tộc ta dưới đời Trần.
Phật
giáo đời Trần tạo cho người hiểu đạo sức mạnh của
nội tâm, là sức mạnh thật sự. Đó là sức mạnh của Trần
Thái Tông, khi ông tuyên bố có thể rời bỏ ngai vàng lúc
nào cũng được, như bỏ chiếc giày rách. Đó là sức mạnh
của Trần Bình Trọng, khi ông thét vào mặt quân Nguyên, muốn
dụ dỗ mua chuộc ông: “Thà làm ma phương Nam, không thèm
làm vương phương Bắc”, là sức mạnh của Phạm Ngũ Lão
ngồi đan sọt giữa đường, quân lính của Trần Hưng Đạo
thọc dáo vào đùi, vẫn ngồi yên không đứng dậy v.v. . .
Sức mạnh Phật giáo đời Trần còn ở chỗ đó là Phật
giáo không phải riêng của Tăng lữ, mà là của mọi người.
Trong cuốn Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông viết:
“Mạc
vấn đại ẩn, tiểu ẩn, hưu biệt tại gia xuất gia, bất
câu Tăng tục, chỉ yếu biện tâm ...”
Ý
tứ là: Không thể là ẩn dật lớn hay ẩn dật nhỏ, không
kể là xuất gia hay tại gia, không kể là Tăng hay tục, chỉ
cần biện tâm...
Biện
tâm, theo Trần Thái Tông là tu tập tâm, tìm hiểu tâm, rèn
luyện tâm, từ tâm mê mờ biến thành tâm sáng suốt, từ
tâm hướng tà biến thành tâm hướng thiện, từ tâm tán loạn
biến thành tâm định tĩnh. Người nào biết biện tâm như
vậy, tức là người đó sẽ là bậc Thánh trong đạo Phật,
dù có tu ở trong chùa (ẩn dật nhỏ), hay là sống ngoài đời
(ẩn dật lớn). Một đạo Phật hướng nội, biện tâm, một
đạo Phật của mọi người . . . đó chính là sức mạnh của
đạo Phật đời Trần, của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử,
là những giá trị tinh thần bất hủ, là vũ khí giúp dân
tộc ta ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông, đã
từng làm mưa làm gió trên một nửa phần Châu Á và Châu
Âu, thời bấy giờ.
Trong
bài thơ vịnh Yên Tử, nhà Nho Phạm Sư Mạnh, tuy không có
cảm tình với Phật giáo, vẫn thốt lên những câu xác nhận
mối quan hệ giữa Yên Tử và cuộc chiến thắng quân Nguyên
Mông dưới đời Trần:
“Nhớ
xưa Trần Trung Hưng,
Khéo
xoay vần trời đất,
Ngàn
chiến thuyền mặt nước,
Ngàn
cờ tinh đầu non,
Trở
tay vựng xã tắc,
Hôi
tanh sạch giang sơn,
Đến
này dân bốn bể
Lâu
dài ghi thắng Nguyên ...”
Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam (Ban Phật giáo Việt Nam) vừa
rồi có nhận được từ ngoài Bắc hai tài liệu đáng quý
về Trần Nhân Tông:
Một
là một số bức ảnh về chùa Minh Khánh, nơi Trần Nhân Tông
lui tới nhiều lần, và có để lại một huyết thư và chín
viên ngọc Xá-lợi. Theo sử liệu, thì sau khi Pháp Loa tổ chức
hỏa táng, Xá-lợi của Trần Nhân Tông được chia làm ba phần:
một phần để ở tháp Huệ Quang trên Yên Tử, một phần
để ở tháp Phổ Minh, tại làng Tức Mặc, quê hương nhà
Trần, và một phần thứ ba để tại Đức Lăng, hiện không
rõ ở đâu. Phải chăng Đức Lăng chính là xã Thanh Bình, huyện
Nam Thanh (Hải Hưng), nơi có chùa Minh Khánh, nơi nhân dân đphát
hiện ra Xá-lợi của Trần Nhân Tông, bốn đạo sắc của
nhà Hậu Lê, nói về bức huyết thư của Trần Nhân Tông để
lại chùa. Do đó, chùa đã được Bộ Văn hóa phát bằng công
nhận là Di tích Lịch sử có ý nghĩa quốc gia. Tôi có đem
theo đây ba bức ảnh về cảnh chùa, do Ban Trùng tu chùa gởi
cho thầy Mạn Đà La, tôi cũng xin phép giới thiệu cho quý
vị xem. Cửa chùa gọi là Trúc Lâm môn (cửa Trúc Lâm). Câu
đối hai bên cửa chùa.
Thanh Bình vạn cổ huyết thư hương”.
Có nhắc tới Trần Nhân Tông và bức huyết thư của ngài. Thanh Bình là tên xã và Minh Khánh là tên chùa. Hiện nay Ban trùng tu chùa Minhh Khánh đang tổ chức tu bổ lại chùa, dựng lại tam quan và soạn một cuốn sách nhỏ “Vua Trần Nhân Tông và chùa Minh Khánh” nhằm giới thiệu chùa, kêu gọi sự đóng góp của đồng bào Phật tử trong nước và hải ngoại để cho công việc trùng tu chùa được hoàn thành nhanh chóng.
Tài liệu thứ hai mà Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam nhận được là Viện Hán Nôm, thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Một bản thảo sưu tập mang đầu đề “Chùa cổ Việt Nam” với gần 500 mục từ, sắp xếp theo vần ABC, dựa vào xử lý, tổng hợp 150 thư tịch thuộc loại tài liệu cơ bản. Hiện chúng tôi đã giao cho Ban Phật giáo Việt Nam, thuộc Viện chúng tôi đọc và nhận xét về giá trị khoa học của bản thảo.
Tôi hy vọng Thiền viện Trúc Lâm, dưới sự hướng dẫn của Thượng tọa Thích Thiện Châu và sự cộng tác của quý vị, của đông đảo các nhà Phật học Việt kiều tại Pháp, sẽ trở thành một trung tâm Phật học có tầm cỡ quốc tế sẽ nghiên cứu theo chiều sâu và giải quyết nhiều vấn đề mà giới Phật học quốc tế đang quan tâm.
Và, với tư cách Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, tôi xin chính thức đặt vấn đề phối hợp công tác nghiên cứu giữa Thiền viện Trúc Lâm của quý vị và Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, nhằm nghiên cứu và làm sáng tỏ một loạt vấn đề Phật học Việt Nam và quốc tế. Hình thức hợp tác có thể là trao đổi các công trình, tài liệu nghiên cứu, tổ chức nghiên cứu chung một số vấn đề Phật học Việt Nam và quốc tế. Thí dụ một số vấn đề mà hiện nay Phật giáo Việt Nam và Ban Phật giáo chuyên môn, trực thuộc Viện chúng tôi đang nghiên cứu và đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học, như “Những đặc điểm của Phật giáo Việt Nam” (khác với Phật giáo Trung Hoa), “Thiền học của Trần Thái Tông”, “Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử”, “Phân kỳ và phân phái trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ”, “Đạo đức Phật giáo”, “Giáo dục Phật giáo”, “Thiền Việt Nam” v.v. . .
Vì Thiền viện Trúc Lâm tọa lạc gần thành phố Paris có được nguồn thông tin cập nhật và phong phú. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam rất mong được Thiền viện Trúc Lâm cung cấp kịp thời và đầy đủ những tư liệu thông tin đó.
Để kết thúc bài nói chuyện của tôi, tôi xin thành tâm cầu chúc cho Thiền viện Trúc Lâm của Thượng tọa Thích Thiện Châu và quý vị sẽ đóng vai trò xứng đáng như là biểu trưng sinh động cho nền Phật giáo của dân tộc tại hải ngoại, tại nước Pháp, ở đây có đông đảo Phật tử Việt kiều, thường xuyên hướng về Tổ quốc thân yêu, và Phật giáo nước nhà.