Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

17. Bộ Kinh Sớ (110 bộ)

08 Tháng Hai 201200:00(Xem: 33957)
17. Bộ Kinh Sớ (110 bộ)

Bộ Kinh Sớ

1693, Nhân Bổn Dục Sinh Kinh Chú, 1 quyển, [ Đông Tấn Đạo An soạn ]

1694, Âm Trì Nhập Kinh Chú, 2 quyển, [ Ngô Trần Tuệ soạn ]

1695, Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Bát Nhã Lý Thú Phân thuật Tán, 3 quyển, [ Đường Khuy Cơ soạn ]

1696, Đại Phẩm Kinh Du Ý, 1 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1697, Đại Tuệ Độ Kinh Tông Yếu, 1 quyển, [ Tân La Nguyên Hiểu soạn ]

1698, Kim Cương Bát Nhã Kinh Sớ, 1 quyển, [ Tùy Trí Khải thuyết ]

1699, Kim Cương Bát Nhã Sớ, 4 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1700, Kim Cương Bát Nhã Kinh Tán thuật, 2 quyển, [ Đường Khuy Cơ soạn ]

1701, Kim Cương Bát Nhã Kinh Sớ Luận Toản Yếu, 2 quyển, [ Đường Tông Mật thuật Tống Tử Tuyền Trì Định ]

1702, Kim Cương Kinh Toản Yếu Khan Định Kí, 7 quyển, [ Tống Tử Tuyền lục ]

1703, Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh Chú Giải, 1 quyển, [ Minh Tông Lặc . Như [ Vương * Kỷ ] Đồng chú ]

1704, Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh Lược Sớ, 2 quyển, [ Đường Trí Nghiễm thuật ]

1705, Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Kinh Sớ, 5 quyển, [ Tùy Trí Khải Thuyết Quán Đảnh kí ]

1706, Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Kinh Sớ Thần Bảo Kí, 4 quyển, [ Tống Thiện Nguyệt thuật ]

 Bản dịch của Thích Bảo Lạc

1707, Nhân Vương Bát Nhã Kinh Sớ, 6 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1708, Nhân Vương Kinh Sớ, 3 quyển, [ Đường Viên Trắc soạn ]

1709, Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Sớ, 7 quyển, [ Đường Lương Bí thuật ]

1710, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh U Tán, 2 quyển, [ Đường Khuy Cơ soạn ]

 Bản dịch của Thích Bảo Lạc

1711, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Tán, 1 quyển, [ Đường Viên Trắc soạn ]

1712, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Lược Sớ, 1 quyển, [ Đường Pháp Tạng thuật ]

1713, Bát Nhã Tâm Kinh Lược Sớ Liên Châu Kí, 2 quyển, [ Tống Sư Hội thuật ]

1714, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Chú Giải, 1 quyển, [ Minh Tông Lặc . Như Khí đồng chú ]

1715, Pháp Hoa Kinh Nghĩa Kí, 8 quyển, [ Lương Pháp Vân soạn ]

1716, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa, 10 quyển, [ Tùy Trí Khải thuyết ]

1717, Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Thiêm, 20 quyển, [ Đường Trạm Nhiên thuật ]

1718, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú, 10 quyển, [ Tùy Trí Khải thuyết ]

 Bản dịch của HT Thích Như Điển

1719, Pháp Hoa Văn Cú Kí, 10 quyển, [ Đường Trạm Nhiên thuật ]

1720, Pháp Hoa Huyền Luận, 10 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1721, Pháp Hoa Nghĩa Sớ, 12 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1722, Pháp Hoa Du Ý, 1 quyển, [ Tùy Cát Tạng tạo ]

1723, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán, 10 quyển, [ Đường Khuy Cơ soạn ]

 Bản dịch của HT Thích Chân Thường, GS Trương Đình Nguyên và Thích Đồng Bổn

1724, Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa Quyết, 1 quyển, [ Đường Tuệ Chiểu soạn ]

  Bản dịch của HT Thích Như Điển

1725, Pháp Hoa Tông Yếu, 1 quyển, [ Tân La Nguyên Hiểu soạn ]

 Bản dịch của HT Thích Như Điển

1726, Quán Âm Huyền Nghĩa, 2 quyển, [ Tùy Trí Khải thuyết . Quán Đảnh kí ]

 Bản dịch của HT Thích Như Điển

1727, Quán Âm Huyền Nghĩa, 4 quyển, [ Tống Tri Lễ thuật ]

1728, Quán Âm Nghĩa Sớ, 2 quyển, [ Tùy Trí Khải thuyết . Quán Đảnh kí ]

1729, Quán Âm Nghĩa Sớ, 4 quyển, [ Tống Tri Lễ thuật ]

1730, Kim Cương Tam Muội Kinh Luận, 3 quyển, [ Tân La Nguyên Hiểu thuật ]

1731, Hoa Nghiêm Du Ý, 1 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1732, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sưu Huyền Phân Thông Trí Phương Quỹ, 5 quyển, [ Đường Trí Nghiễm thuật ]

1733, Hoa Nghiêm Kinh Tham Huyền Kí, 20 quyển, [ Đường Pháp Tạng thuật ]

1734, Hoa Nghiêm Kinh Văn Nghĩa Cương Mục, 1 quyển, [ Đường Pháp Tạng soạn ]

1735, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ, 60 quyển, [ Đường Trừng Quán soạn ]

1736, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao, 90 quyển, [ Đường Trừng Quán thuật ]

1737, Đại Hoa Nghiêm Kinh Lược Sách, 1 quyển, [ Đường Trừng Quán thuật ]

1738, Tân dịch Hoa Nghiêm Kinh Thất Xử Cửu Hội Tụng Thích Chương, 1 quyển, [ Đường Trừng Quán thuật ]

1739, Tân Hoa Nghiêm Kinh Luận, 40 quyển, [ Đường Lý Thông Huyền soạn ]

1740, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Trung Quyển Quyển Đại Ý Lược Tự ( Hựu Danh Hoa Nghiêm Kinh Đại Ý ), 1 quyển, [ Đường Lý Thông Huyền tạo ]

1741, Lược Thích Tân Hoa Nghiêm Kinh Tu Hành Thứ Đệ Quyết Nghi Luận ( Hựu Danh Hoa Nghiêm Kinh Quyết Nghi Luận ), 4 quyển, [ Đường Lý Thông Huyền soạn ]

1742, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nguyện Hành Quán Môn Cốt Mục ( Hựu Danh Hoa Nghiêm Kinh Cốt Mục ), 2 quyển, [ Đường Trạm Nhiên soạn ]

1743, Hoàng Đế Hàng Đản Nhật Ư Lân Đức Điện Giảng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Huyền Nghĩa Nhất Bộ ( Hựu Danh Đại Chu Kinh Huyền Nghĩa ), 1 quyển, [ Đường Tĩnh Cư soạn ]

1744, Thắng Man Bảo Quật, 3 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1745, Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, 2 quyển, [ Tùy Tuệ Viễn soạn ]

1746, Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, 1 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1747, Lưỡng Quyển Vô Lượng Thọ Kinh Tông Yếu, 1 quyển, [ Tân La Nguyên Hiểu soạn ]

1748, Vô Lượng Thọ Kinh Liên Nghĩa thuật Văn Tán, 3 quyển, [ Tân La Cảnh Hưng soạn ]

1749, Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, 1 quyển, [ Tùy Tuệ Viễn soạn ]

1750, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, 1 quyển, [ Tùy Trí Khải thuyết ]

1751, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông Sao, 6 quyển, [ Tống Tri Lễ thuật ]

1752, Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, 1 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1753, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, 4 quyển, [ Đường Thiện Đạo tập kí ]

1754, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Nghĩa Sớ, 3 quyển, [ Tống Nguyên Chiếu thuật ]

1755, A Di Đà Kinh Nghĩa Kí, 1 quyển, [ Tùy Trí Khải thuyết ]

1756, A Di Đà Kinh Nghĩa thuật, 1 quyển, [ Đường Tuệ Tịnh thuật ]

1757, A Di Đà Kinh Sớ, 1 quyển, [ Đường Khuy Cơ soạn ]

1758, A Di Đà Kinh Thông Tán Sớ, 3 quyển, [ Đường Khuy Cơ soạn ]

1759, A Di Đà Kinh Sớ, 1 quyển, [ Tân La Nguyên Hiểu thuật ]

1760, A Di Đà Kinh Sớ, 1 quyển, [ Tống Trí Viên thuật ]

1761, A Di Đà Kinh Nghĩa Sớ, 1 quyển, [ Tống Nguyên Chiếu thuật ]

1762, A Di Đà Kinh Yếu Giải, 1 quyển, [ Minh Trí Húc giải ]

 Bàn dịch của Tuệ Nhuận

1763, Đại Bát Niết Bàn Kinh Tập Giải, 71 quyển, [ Lương Bảo Lượng Đẳng tập ]

1764, Đại Bát Niết Bàn Kinh Nghĩa Kí, 10 quyển, [ Tùy Tuệ Viễn thuật ]

1765, Đại Bát Niết Bàn Kinh Huyền Nghĩa, 2 quyển, [ Tùy Quán Đảnh soạn ]

1766, Niết Bàn Huyền Nghĩa Phát Nguyên Ky Yếu, 4 quyển, [ Tống Trí Viên thuật ]

1767, Đại Bát Niết Bàn Kinh Sớ, 33 quyển, [ Tùy Quán Đảnh soạn ]

1768, Niết Bàn Kinh Du Ý, 1 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1769, Niết Bàn Tông Yếu, 1 quyển, [ Tân La Nguyên Hiểu soạn ]

1770, Bổn Nguyện Dược Sư Kinh Cổ Tích, 2 quyển, [ Tân La Thái Hiền soạn ]

1771, Di Lặc Kinh Du Ý, 1 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1772, Quán Di Lặc Thượng Sinh Đâu Suất Thiên Kinh Tán, 2 quyển, [ Đường Khuy Cơ soạn ]

1773, Di Lặc Thượng Sinh Kinh Tông Yếu, 1 quyển, [ Tân La Nguyên Hiểu soạn ]

1774, Tam Di Lặc Kinh Sớ, 1 quyển, [ Tân La Cảnh Hưng soạn ]

1775, Chú Duy Ma Cật Kinh, 10 quyển, [ Hậu Tần Tăng Triệu soạn ]

1776, Duy Ma Nghĩa Kí, 4 quyển, [ Tùy Tuệ Viễn soạn ]

1777, Duy Ma Kinh Huyền Sớ, 6 quyển, [ Tùy Trí Khải soạn ]

1778, Duy Ma Kinh Lược Sớ, 10 quyển, [ Đường Trí Khải thuyết Trạm Nhiên lược ]

1779, Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Kí, 10 quyển, [ Tống Trí Viên thuật ]

1780, Tịnh Danh Huyền Luận, 8 quyển, [ Tùy Cát Tạng tạo ]

1781, Duy Ma Kinh Nghĩa Sớ, 6 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1782, Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh Sớ, 6 quyển, [ Đường Khuy Cơ soạn ]

1783, Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa, 2 quyển, [ Tùy Trí Khải thuyết Quán Đảnh lục ]

1784, Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa Thập Di Kí, 6 quyển, [ Tống Tri Lễ thuật ]

1785, Kim Quang Minh Kinh Văn Cú, 6 quyển, [ Tùy Trí Khải Thuyết Quán Đảnh lục ]

1786, Kim Quang Minh Kinh Văn Cú Kí, 6 quyển, [ Tống Tri Lễ thuật ]

1787, Kim Quang Minh Kinh Sớ, 1 quyển, [ Tùy Cát Tạng soạn ]

1788, Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ, 6 quyển, [ Đường Tuệ Chiểu soạn ]

1789, Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh Chú Giải, 4 quyển, [ Minh Tông Lặc . Như Khí đồng chú ]

1790, Nhập Lăng Già Tâm Huyền Nghĩa, 1 quyển, [ Đường Pháp Tạng soạn ]

1791, Chú Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh, 10 quyển, [ Tống Bảo Thần thuật ]

1792, Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh Sớ, 2 quyển, [ Đường Tông Mật thuật ]

1793, Ôn Thất Kinh Nghĩa Kí, 1 quyển, [ Tùy Tuệ Viễn soạn ]

1794, Chú Tứ Thập Nhị Chương Kinh, 1 quyển, [ Tống Chân Tông Hoàng Đế chú ]

1795, Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh Lược Sớ, 4 quyển, [ Đường Tông Mật thuật ]

1796, Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ, 20 quyển, [ Đường Nhất Hành kí ]

1797, Đại Tỳ Lô Giá Na Kinh Cúng Dường Thứ Đệ Pháp Sớ, 2 quyển, [ Đường Bất Khả Tư Nghị soạn ]

1798, Kim Cương Đảnh Kinh Đại Du Già Bí Mật Tâm Địa Pháp Môn Nghĩa Quyết, 1 quyển, [ Đường Bất Không soạn ]

1799, Thủ Lăng Nghiêm Nghĩa Sớ Chú Kinh, 20 quyển, [ Tống Tử Tuyền tập ]

1800, Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ, 1 quyển, [ Tùy Trí Khải thuyết Quán Đảnh kí ]

1801, Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ Xiển Nghĩa Sao, 4 quyển, [ Tống Trí Viên thuật ]

1802, Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh Nghĩa Sớ, 1 quyển, [ Đường Tuệ Chiểu soạn ]

1803, Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh Giáo Tích Nghĩa Kí, 2 quyển, [ Đường Pháp Sùng thuật ]
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12515)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10852)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10522)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11193)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12004)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13147)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13636)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33666)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11337)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12925)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13057)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11629)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17895)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11443)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11852)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11502)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18976)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12542)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11332)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13140)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15766)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11808)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11694)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12765)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12631)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13967)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12995)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12947)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13298)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12771)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12698)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11747)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11736)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12327)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12386)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19821)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11959)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11990)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16883)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12668)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15062)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16119)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12882)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12232)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11916)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11927)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13151)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16507)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13235)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12496)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11819)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19860)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11155)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11261)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10402)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11091)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10968)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10036)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11755)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant