Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quán Thế Âm thập nhứt diện thần chú tâm kinh

11 Tháng Năm 201200:00(Xem: 58748)
Quán Thế Âm thập nhứt diện thần chú tâm kinh
Quán Thế Âm
thập nhứt diện thần chú tâm kinh 

Ðại Ðường Tam tạng Huyền Trang Pháp sư phụng chiếu dịch Phạn ra Hán văn 
Sa-môn Thích Viên Đức dịch Hán ra Việt văn

 

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ. Ðại Bồ-tát thì vô lượng vô số, ngài Từ Thị Bồ-tát làm thượng thủ. Lại có vô lượng Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và chư Thiên Long, Dược-xoa, Kiền-thác-bà, A-tô-la, Yết-lỗ-trà, Khẩn-nại-lạc, Ma-hô-lạc-già, Cưu-bàn-trà, Tất-xá-giá, nhơn cùng Phi nhơn, v.v, đại chúng vây quanh cúng dường cung kính, tôn trọng tán khen đức Phật vì họ nói Pháp.

Lúc bấy giờ đức Quán Tự Tại Đại Bồ-tát cùng vô lượng câu-chi na-du-da trăm ngàn trì chú thần tiên, trước sau đoanh vây đi đến chỗ Phật. Ðến rồi đảnh lễ hai chân Thế tôn, hữu nhiễu ba vòng, lui về một bước.

Quán Tự Tại Ðại Bồ-tát bạch đức Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn! Con có thần chú Tâm gọi là Thập Nhứt Diện đủ đại oai lực, mười một câu-chi chư Phật đã nói, con nay xin muốn nói để làm lợi ích an lạc cho hết thảy hữu tình, trừ tất cả bệnh, diệt tất cả ác, chấm dứt tất cả việc bất tường, trừ tất cả ác mộng tưởng, ngăn tất cả sự chết phi thời, khiến các kẻ ác tâm được thanh tịnh, kẻ có buồn khổ được an vui, kẻ có oán đối được hòa giải. Ma quỷ chướng ngại đều bị tiêu diệt, tâm sở nguyện đều được xứng ý. Thưa đức Thế tôn! Con không thấy thế gian hoặc trời hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc Sa-môn, hoặc Bà-la-môn v.v., dùng thần chú này để phòng hộ thân mình, thọ trì đọc tụng chép viết lưu bố mà bị tất cả tai hoạnh ma chướng, đao trượng, độc dược, ếm mị chú thuật có thể làm hại họ, con cũng không thấy dùng thần chú nầy tùy ở chỗ nào, hoặc xa hoặc gần kiết làm giới hạn rồi mà có thể vượt qua để nhiễu hại nhau, chỉ trừ ác nghiệp quyết định đã đến lúc chín muồi. Thưa đức Thế tôn! Xin ngài chứng biết cho những việc chắc chắn như vậy. Chỉ nên tin thọ, không nên phân biệt, vì thế khiến tất cả tai hoạnh thảy đều viễn ly không thể xâm cận. Thần chú Tâm này, tất cả chư Phật đồng đã xưng tán, đồng đã tùy hỷ. Tất cả Như Lai nhớ trì thủ hộ thần chú Tâm này. Thưa đức Thế tôn! Con nhớ đời quá khứ quá Căng-già sa đẳng tiền kiếp, có đức Phật ra đời gọi là Bách Liên Hoa NhãnChướng Ngại Ðẳng Xí Thạnh Công Ðức Quang Vương Như Lai Ứng Chánh đẳng giác, lúc ấy con làm vị đại tiên nhân theo đức Thế tôn kia để thọ trì chú nầy. Ðược chú nầy con thấy được 10 phương chư Phật, lập tức con chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, phải biết chú nầy có đủ đại oai lực. Vậy cho nên, nếu có kẻ tịnh tín, thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v., muốn thọ trì đọc tụng thần chú nầy, phải nên cung kính chí tâm buộc niệm, mỗi lúc sáng chiều như Pháp thanh tịnh niệm tụng chú nầy 108 biến, nếu thường hay như thế, hiện thân thu hoạch được 10 món lợi ích thù thắng. Những gì là mười?”

1) Thân người ấy thường vô bịnh

2) Thường được mười phương chư Phật nhiếp thọ

3) Tài bảo, y thực thọ dụng vô tận

4) Hay hàng phục oán địch mà không lo sợ

5) Khiến các bậc tôn quý trước ngôn cung kính

6) Cổ độc, quỷ mị không thể trúng thương

7) Tất cả đao trượng không thể hại được

8) Nước không thể nhận chìm

9) Lửa không thể đốt

10) Không bị hoạnh tử

Lại còn được bốn món công đức thù thắng nữa:

1) Khi mạng lâm chung được thấy chư Phật

2) Khi lâm chung không đọa các ác thú

3) Không nhân vì sự hiểm nguy mà chết

4) Ðược sinh Cực Lạc thế giới.

Kính thưa đức Thế tôn! Con nhớ lại thời quá khứ, quá hơn mười Căng-già sa đẳng kiếp, lại gặp nơi có đức Phật ra đời gọi là Mỹ Âm Hương Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, lúc ấy con làm thân đại cư sĩ ở chỗ đức Phật kia thọ được thần chú nầy, khi được chú nầy, con liền tụng trì, vượt qua được bốn vạn kiếp sinh tử, con lại được chư Phật ðại bi trí tạng nhứt thiết Bồ-tát giải thoát pháp môn. Do oai lực của chú nầy, con có thể cứu tất cả những cột trói, cùm trói, xiềng xích nơi chốn lao ngục, những kẻ sa vào hình lục, thủy hỏa phong tặc, trùng độc ếm đảo, nhơn cùng Phi nhơn v.v., các thứ khổ nạn. Do thần chú nầy, con đối với tất cả hữu tình hay làm chỗ quy y cứu hộ an ủi, làm hang sâu, phòng nhà. Con dùng chú lực này để nhiếp thủ tất cả bạo ác, Dược-xoa, La- sát-bà… vv, trước khiến cho họ phát khởi từ tâm, mẫn tâm, vậy sau mới an lập nơi đạo Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng Chánh giác.

Thưa đức Thế tôn! thần chú nầy của con có đại oai lực. Nếu tụng một biến tức hay trừ diệt tứ căn bản tội và ngũ vô gián khiến không còn dư sót, huống hay như lời nóitu hành. Nếu đã từng trồng các căn lành ở trăm ngàn câu-chi na-du-da Phật thì ngày nay ở nơi đây mới nghe được thần chú nầy, huống nữa hay thọ trì, như lời nóitu hành. Nếu có thể ngày đêm đọc tụng thọ trì thần chú nầy, con sẽ khiến người đó đã có mong cầu điều chi đều được như ý. Nếu có thể mỗi nửa tháng, hoặc ngày 14, hoặc ngày rằm, thọ trì trai giới như Pháp thanh tịnh, buộc tâm nơi con tụng thần chú này, liền ở trong sanh tử vượt bốn vạn kiếp.

Kính thưa Thế tôn! Con do chú này được gọi hiệu là “Tôn quý” khó có thể được nghe. Nếu có người xưng niệm trăm ngàn câu-chi-na-du-đa danh hiệu chư Phật và nếu có người chỉ tạm thời đối với danh hiệu của con chí tâm xưng niệm thì hai công đức kia bình đẳng, bình đẳng. Những người có xưng niệm danh hiệu của con thì tất cả đều được địa vị Bất thối chuyển, xa lìa tất cả bịnh, thoát tất cả chướng và tất cả lo sợ và hay diệt trừ thân ngữ ý ác, huống nữa có người đối với thần chú của con đã nói mà thọ trì đọc tụng như lời nói tu hành, phải biết người đó, đối với Vô thượng Bồ-đề lảnh thọ được như tại bàn tay”.

Lúc bấy giờ, đức Thế tôn khen ngợi đức Quán Tự Tại Bồ-tát rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ông mới hay đối với tất cả hữu tình, phát khởi ý đại từ bi muốn khai thị đại thần chú này như thế. Thiện nam tử! Ông do phương tiện này, hay cứu thoát tất cả hữu tình đã có bịnh khổ chướng nạn, sợ sệt, thân ngữ ý ác cho đến an lập tất cả hữu tình vào đạo Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử! Ta cũng vui mừng cho phép ông nói thần chú đó, ông nên nói đi.”

 Lúc bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát liền từ tòa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất mà bạch đức Phật rằng: “Kẻ tụng chú nên nói như thế này:

· Kính lễ Tam Bảo.

· Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai.

· Kính lễ nhứt thiết Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.

· Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Ðại bi giả.

Ðát Ðiệt Tha: Ám, Ðạt Ra Ðạt Ra, Ðịa Lý Ðịa Lý, Ðổ Rô Ðổ Rô, Nhứt Lai Phạt Lai, Chiếc Lệ Chiếc Lệ, Bát ra Chiếc Lệ Bát ra Chiếc Lệ Câu tố mế Câu tô ma phạt lệ Nhứt Lí Nhí Lí, Chỉ Lí Chỉ Trí, Thạ La Ma Ba Nại Gia, Thuật Ðà Tát Ðỏa, Mạt ha Ca Lô Ní Ca, Tóa Ha.

Bạch đức Thế tôn! Ðây là thần chú căn bản. Nếu có người trì tụng, thì thu hoạch được những công đức thù thắng như trên đã nói.

· Kính lễ Tam Bảo.

· Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai.

· Kính lễ nhứt thiết Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.

· Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Ðại bi giả.

Ðát Ðiệt Tha: Kha Kha Kha Kha, Nhứt Lệ Nhí Lệ, Chỉ Lệ Bệ Lệ, Khí Lệ Hế Lệ, Sa Ha.

Kính thưa Thế tôn! Ðây là Thủy chú và Y chú. Nếu muốn vào đạo tràng, trước nên tắm rửa, sau lấy thần chú này chú vào trong nước bảy biến, sái thân kết tịnh. Lại lấy thần chú này chú trong áo mặc bảy biến, rồi sau mới mặc vào. 

· Kính lễ Tam Bảo.

· Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai.

· Kính lễ nhứt thiết Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.

· Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Ðại bi giả.

Ðát Ðiệt Tha: Trổ Rô Trổ Rô, Kha Kha Kha Kha, Sa Ha

Thưa đức Thế tôn! Chú này là Hương chú, là Ðăng chú. Nếu khi vào đạo tràng, khi muốn thiêu hương cúng dường, trước dùng thần chú này trong hương bảy biến, nhiên hậu mới thiêu. Khi muốn thắp đèn, trước dùng chú này chú trong dầu bảy biến, sau mới thắp đèn.

· Kính lễ Tam Bảo.

· Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai.

· Kính lễ nhứt thiết Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.

· Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Ðại bi giả.

Ðát Ðiệt Tha: Tử Lí Tử Lí, Ðịa Lí Ðịa Lí, Tử Lí Ðịa Lí, Sa Ha.

Thưa đức Thế tôn! Ðây là Hoa hương man chú. Nếu vào đạo tràng, khi muốn dùng hoa, hương man để cúng dường, trước lấy thần chú này chú trong hoa bảy biến dùng tán rải nơi Tôn tượng, lại lấy thần chú này chú vào hương bột bảy biến rồi thoa vào Tôn tượng, lại lấy chú này chú vào tràng hoa bảy biến để đem trang nghiêm Tôn tượng.

· Kính lễ Tam Bảo.

· Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai.

· Kính lễ nhứt thiết Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.

· Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Ðại bi giả.

Ðát Ðiệt Tha: Ta Ðệ Ta Ðệ, Tử Ðịa Tử Ðịa, Tố Ðổ Tố Ðổ, Sa Ha.

Thưa đức Thế tôn! Ðây là cúng Phật hiến chú. Nếu muốn lấy đồ ẩm thực, hoa quả… vv, để cúng dường Phật, trước tụng chú này 21 biến, nhiên hậu mới phụng hiến.

· Kính lễ Tam Bảo.

· Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai.

· Kính lễ nhứt thiết Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.

· Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Ðại bi giả.

Ðát Ðiệt Tha: Mạc Tử Ðạc Tử, Chiếc Lí Chiếc Lí, Hổ Rô Hổ Rô, Chủ Rô Chủ Rô, Tố Rô Tố Rô, Mẫu Rô Mẫu Rô, Sa Ha.

Thưa đức Thế tôn! Ðây là Tân chú (tân: củi). Nếu muốn trên căn bản thần chú tùy việc lúc làm, trước lấy chú này chú trong cây Xà-để hoa một biến rồi mới đem mà nhúm lửa. Lại riêng lấy Xà-để hoa cắt lấy làm 31 đoạn, mỗi đoạn dài một tấc Tàu, dùng sữa, bơ, mật thoa cho ướt và trải qua một đêm, mỗi khi lấy một đoạn thì chú một biến, rồi bỏ vào trong lửa cho đến hết 31 đoạn nhiên hậu mới tùy việc mà làm. 

· Kính lễ Tam Bảo.

· Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai.

· Kính lễ nhứt thiết Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.

· Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Ðại bi giả.

Ðát Ðiệt Tha: Nhứt Lí Nhí Lí, Tỉ Lí Ðể Lí, Chí Lí Hế lí, Sa Ha.

Thưa đức Thế tôn! Ðây là Kiết giới thần chú. Khi muốn kiết giới, trước dùng chú này chú trong nước bảy biến tán sái bốn phương, hoặc chú trong giới tử (hạt cải) hoặc chú trong tịnh khôi (tro sạch) đều đến bảy biến cũng rải bốn mặt, tùy tâm xa gần tức thành ranh giới mà làm phòng hộ.

· Kính lễ Tam Bảo.

· Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai.

· Kính lễ nhứt thiết Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.

· Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Ðại bi giả.

Ðát Ðiệt Tha: Tỉ Ðê Tỉ Ðê, Ðể Ðê Ðể Ðê, Chỉ đê chi đê, Phỉ đê phỉ đê, Yết Xa Yết Xa, Bạc Già Phạm A Lị Gia Bà Lô Chỉ Ðế Thập Phạt Ra Táp Phạ Bà Phạ Nẫm, Sa Ha.

Thưa đức Thế tôn! Ðây là thần chú thỉnh con trở về bổn cung. Nếu đã làm việc gì rồi, khi thỉnh con trở về bổn cung nên dùng thần chú này chú trong nước bảy biến tán sái bốn phương, con liền trở về ngay.

Kính thưa đức Thế tôn! Thần chú như vậy tuy không có thành lập (đàn pháp) mà cũng có thể ra làm các sự nghiệp. Chí tâm niệm tụng, nguyện gì cũng thành tựu.

Nếu bịnh sốt rét một ngày một lần lên cơn, hoặc hai ngày một lần lên cơn, hoặc ba ngày một lần phát, hoặc bốn ngày một lần phát, hoặc bịnh quỷ mị, hoặc Bộ-đa quỷ làm bịnh, hoặc Trà-ki-ni làm bịnh, hoặc Tất-xá-giá làm bịnh, hoặc Yết-tra-bổ-đát-na làm bịnh, hoặc quỷ điên làm bịnh, hoặc giảng quỷ làm bịnh (giảng: động kinh), hoặc các thứ ác quỷ làm bịnh đều lấy thần chú này trị cho người bệnh kia 108 biến tức được trừ lành.

Nếu người bị chướng trọng, dùng chỉ ngũ sắc tụng thần chú làm gút, trì một biến gút một gút cho đúng 108 gút, lấy đeo vào cổ bịnh nhân hoặc đeo trên tay thì tội chướng tiêu diệt, bệnh tật liền trừ lành. Nếu người bị bịnh đinh thủng, ung thủng, ghẻ chòm, ghẻ phỏng, ung thư, nhọt sảy, ghẻ lở... các thứ ác bịnh, hoặc bị đao, tên, gươm, thuẫn làm bị thương, rắn, rít, bò cạp, ong độc cắn mổ đều lấy thần chú này chú bảy biến tức được trừ lành.

Nếu người bị chướng trọng thì chú nơi huỳnh thổ dẻo, trì đến bảy biến, thoa nơi chỗ bịnh thì đau khổ liền trừ lành. Nếu người bị bịnh nóng phong, thiên phong, chu phong, tai điếc mũi nghẹt cảm phong hết thảy bịnh đều nên chí tâm tụng niệm chú này, chú người bịnh hoạn kia 108 biến, bịnh tức trừ lành. Nếu ngưới bị chướng trọng lấy dầu hoặc bơ ngâm với hoa bì và thanh mộc hương, mỗi thứ chú bảy biến, liền dùng thoa nơi thân, hoặc nhỏ nơi lỗ tai, lỗ mũi hoặc cho uống, người bịnh hoạn kia liền lành. Nếu còn có các thứ tật bịnh khác, đều nên chí tâm lấy thần chú này mà chú hoặc tự niệm tụng, tức được trừ lành.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu muốn thành lập thần chú này (lập đàn) nên trước hết lấy cây bạch chiên đàn hương cứng tốt không có tỳ vết, khắc làm tượng Quán Tự Tại Bồ-tát dài một nửa khuỷu tay. Tay tả cầm cái bình quân trì có cắm cành hoa sen hồng, tay hữu cầm xâu chuỗi và tác ấn Thí vô úy. Tượng này có 11 mặt: ba mặt trước tác tướng từ bi, ba mặt bên tả tác tướng sân nộ, ba mặt bên hữu tác tướng nhe răng trên trắng, một mặt phía sau tác bạo ác đại tiếu tướng, một mặt trên đảnh tác Phật diện tướng. Trong mão các đầu đều tác Phật thân. Trên thân Quán Tự Tại Bồ-tát, đeo đầy đủ các thứ anh lạc trang nghiêm. Tạo tượng này rồi, muốn cầu nguyện thì mặc y mới thanh tịnh, thọ trì trai giới theo tháng bạch nguyệt từ ngày mùng một đến ngày mùng 8 mỗi ngày ba thời niệm tụng chú này 108 biến hoặc vô lượng biến. Từ đây về sau ở một chỗ tịnh thất, trải tòa thanh tịnh, an trí tượng đã tạo, tượng Quán Tự Tại Bồ-tát mặt hướng về Tây. Tùy sức bày biện hiến cúng các thứ ẩm thực, chỉ thiêu trầm thuỷ và tô hạp hương. Hành giả nên ăn đại mạch và sữa, như trước niệm tụng cho đến ngày 13, từ đây về sau cần phải bội phần thiết lễ cúng dường đầy đủ hơn trước, hành giả chỉ nên ăn ba thứ bạch thực, nghĩa là sữa, bơ, cơm. Lấy củi cây Bồ-đề dùng để nhúm lửa trước tượng. Lại lấy cây củi này cắt ra 1.008 đoạn, mỗi đoạn chừng một tấc Tàu dùng đổ-rô-sắc-ca hương thấm vào, mỗi lần lấy một đoạn tụng chú một biến, bỏ vào trong lửa cho đến hết. Lúc bấy giờ đại địa bỗng nhiên rung động. Tự thân tượng này cũng liền vận động, từ mặt trên cùng, trong miệng phát ra tiếng ngợi khen hành giả rằng: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, con có thể chịu khó cầu nguyện một cách khẩn khiết như thế. Ta sẽ khiến cho con sở nguyện được đầy đủ, khiến cho con ở nơi đây bay lên hư không mà đi, hoặc lại khiến cho con du hành vô ngại, hoặc làm vua trong hàng trì chú tiên nhân, hoặc khiến được như ta tự tạichướng ngại.”

Lại nữa, hành giả ở trong tháng bạch nguyệt ngày rằm, lấy tượng Quán Tự Tại Bồ-tát 11 mặt để trong Phật-đà Ðô-chế-đa, mặc y mới thanh tịnh thọ trì trai giới, trải qua một ngày một đêm không ăn không uống, lấy Tô-mạt-na hoa 1.008 cái, lấy mỗi cái hoa chú vào một biến ném trên tượng cho đến hết. Bấy giờ mặt trước tượng kia, trong miệng phát ra tiếng như sấm nổ, do đây liền khiến đại địa chấn động. Hành giả lúc bấy giờ nên tự an tâm, chớ sanh sợ hãi, chỉ niệm thần chú, cầu xin điều chi thì nói như thế này: “Kính lễ Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát đại bi giả, con ở thời nào hay làm nơi nương tựa lớn cho tất cả hữu tình, hay mãn tâm sở nguyện của tất cả hữu tình”. Bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-tát liền ban cho nguyện kia. Khi Quán Tự Tại Bồ-tát ban cho nguyện ấy thì chư Thiên Long... v.v. không còn làm chướng ngại hành giả nữa. Lại nữa, hành giả nơi lúc nguyệt thực, lấy một lượng bơ để đầy trong đồ đựng bằng bạc, đem để trước tượng niệm tụng thần chú này cho đến khi mặt trăng hoàn sinh như cũ, liền lấy ăn vào, trong thân có các bịnh gì đều lành.

Lại nữa, hành giả nên lấy một ít hùng hoàng, ngưu hoàng để nơi trước tượng, tụng niệm thần chú này 1.008 biến, lấy nước hòa chung lại với nhau điểm nơi giữa chặng mày thì ba việc thành tựu như trước đã nói. Nếu hòa với nước nóng mà tắm rửa thân kia, thời tất cả chướng ngại, tất cả ác mộng, tất cả dịch bịnh đều được lành hẳn.

Lại nữa, nếu có oán tặc từ phương khác đến xâm lấn biên giới, nên lấy một cái yến chỉ (nhơn chi) tụng chú chú vào đó 108 biến rồi đem trang điểm tượng này ở phía bên tả mặt sân nộ, rồi xoay mặt này về hướng có giặc khiến oán tặc quân không thể tiến tới được.

Lại nữa, nếu nhân súc trong quốc độ bị dịch khởi, nơi trước tượng này nhúm lửa bằng cây nhậm-bà, lại riêng lấy củi này cắt ra 1.008 đoạn nhỏ bằng một tấc Tàu, rồi lấy mỗi đoạn thoa dầu hạt cải, chú một biến bỏ vào trong lửa cho đến hết. Lại lấy chỉ lụa đào làm bảy gút, chú một biến gút một gút treo trên đảnh tượng Phật (mặt thứ 11) hay khiến cho bịnh dịch tất cả tiêu trừ. Khi tật bệnh đã được trừ rồi, hành giả mở bỏ chú dây cột ra.

Lại nữa, nếu có bọn Trà-kỳ-ni, Bộ-đa quỷ...vv., làm thành bịnh, nên lấy chỉ trắng làm 21 chú gút, chú một biến, gút một gút, rồi đem để trên đỉnh mặt từ bi phía trước trải qua một đêm rồi mở lấy, đem đeo trên cổ bịnh nhân, bịnh tức liền lành. Nếu nghiệp chướng nặng nề không trừ lành được, nên lấy dây đã chú, chú trở lại 108 biến đem cột vào chỗ cột trước (trên đảnh tượng mặt từ bi) trải qua một đêm rồi mở lấy đem đeo trên cổ bịnh nhân, thì chắc chắn được trừ lành.

Lại nữa, nếu có người trường bịnh khốn khổ không lành hoặc ác thần quỷ vào nhà, nên lấy 108 cái huân lục hương, ở trước tượng này, mỗi cái chú một biến, bỏ vào trong lửa cho đến hết; lại lấy dây làm 21 gút, mỗi chú gút một gút, đem treo trước mặt từ bi trên đảnh, trải qua một đêm rồi mở lấy trên trên cổ người bịnh, bịnh ấy trừ lành, ác quỷ chạy trốn.

Lại nữa, nếu bị oán thù rình tìm muốn hại, tranh cãi, ếm trù muốn làm suy hại, nên lấy các thứ hương hoa ...v.v, các vật cúng dường nơi tượng, lấy cây Bà-phước-ca trước tượng mà thiêu đốt, lấy vân đài tử 108 cái, mỗi cái chú một biến bỏ vào trong lửa, lại lấy chỉ trắng gút làm 108 gút mỗi chú gút một gút, đem chỉ đó cột trên đảnh tượng mặt sân nộ bên tả, trải qua một đêm mở lấy dây này, xưng tên kẻ oán thù, cắt ra mỗi một gút đem bỏ mỗi chỗ khác nhau, mỗi lần xưng thì mỗi lần cắt cho đến hết, hiện tại kẻ oán cừu kia làm gì thì bất toại ý, tự nhiên quy phục.

Lại nữa, có người muốn cầu các việc lành tốt, lấy chỉ ngũ sắc gút làm một chú-dây 108 gút, chú một biến gút một gút, lại ở nơi trước tượng chú bảy biến, đem dây đó cột trên đảnh mặt từ bi phía trước, trải qua một đêm, xong rồi mở lấy đeo trên thân của mình thì việc sở cầu đều được như ý.

Lại nữa, nếu biết trong thân có các chướng nạn, sở cầu thiện sự phần nhiều không như tâm, suy họa thường thường vô nhân (không duyên cớ) mà đến, nên lấy nước hương thơm tắm thân tượng này, lại lấy nước tắm này chú 108 biến, rồi đem tắm thân tượng Tỳ-na-dạ-ca, lại lấy nước đó chú 108 biến, rồi tự sái nơi thân của người bị chướng nạn, thì tất cả chướng nạn tự nhiên bị tiêu diệt, các điều mong cầu thảy đều như ý.

Khi Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát nói kinh này rồi, tất cả đại chúng đồng thời khen rằng: “Lành thay, lành thay đại sĩ! Ngài hay vì muốn lợi ích an lạc các hữu tình nên nói thần chú này, chúng con vui mừng tùy hỷ, cũng nguyện thọ trì.”

Bấy giờ đại chúng vui mừng hớn hở, nhiễu Phật ba vòng làm lễ mà trở về chỗ cũ.

 

Quán Thế Âm thập nhứt diện thần chú tâm kinh (hết)

Sa-môn Thích Viên Đức dịch từ Hán ra Việt văn

 

(Nguyễn minh Hoàng và Nguyễn thị Diệu Minh chép lại từ bản nháp đầu tiên.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12478)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10345)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12322)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11624)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28781)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12026)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12992)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11431)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12346)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17430)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52990)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35471)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21363)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10671)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12395)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26015)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13303)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14354)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16065)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13721)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16821)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17552)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13109)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12510)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11600)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11584)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14489)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20438)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18964)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18619)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12171)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12288)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13833)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14997)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15024)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13975)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15505)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11385)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17160)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14959)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20171)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14601)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13824)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11692)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15041)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12977)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14541)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11641)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13147)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16853)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18321)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11928)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11487)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15829)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12863)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18886)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18409)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant