Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

03. Khīnāsava - Lậu tận

01 Tháng Tám 201200:00(Xem: 14893)
03. Khīnāsava - Lậu tận

ĐOẠN TRỪ LẬU HOẶC

Tác giả: Acharya Buddharakkhita
Dịch giả: Pháp Thông

PHẦN I

KHĪNASĀVA - LẬU TẬN

Mục Ðích Cuộc Ðời Theo Kinh Pháp Cú

I

Cuộc đời, theo tinh thần Kinh Pháp Cú (Dhammapada) chỉ có ý nghĩa khi có một mục đích để sống. Mục đích này thực sự phải vượt qua được tầm ảnh hưởng của những thế lực đã từng siết chặt cuộc đời vào vòng luân hồi bằng sức mạnh như gọng kềm của nó. Về đại thể, triết lý sống mà Kinh Pháp Cú (Dhammapada) đề ra có thể được diễn đạt như vầy:

Như chim trên trời cao!
Không lưu lại dấu tích,
Sao tìm ra mối manh!

Cát thời gian vô thường,
Nhắc nhở chuyện tử sanh.
Trong dòng luân hồi này,
Ngã chấp chớ lưu lại.

Tổ ấm tạm gọi đời,
Dù có vẻ vững chắc.
Cũng chỉ là bong bóng,
Do nghiệp hữu tác thành.
Hãy gấp rút giải thoát,
Nhọc nhằn vô nghĩa này!

Các Lậu tuôn rỉ mãi,
Dưỡng nuôi kiếp luân hồi.
Bất tận và vô định,
Hãy như chim, tự tại!

Kinh Pháp Cúdi huấn tinh thần của Ðức Phật. Có thể nói đó là những ánh chớp trí tuệ tỏa rạng Phật Tâm được kết tinh lại thành những vần kệ thâm áo sáng trong. Như một cuốn cẩm nang hướng dẫn đời sống chánh hạnh của người Phật tử, Pháp Cú Kinh vừa là một tác phẩm Kinh điển tầm cỡ thế giới vừa là một suối nguồn cảm hứnggiá trị miên viễn.

Những khái niệm cơ bản của Ðạo Phật đã được sắp xếp lại trong bản tóm tắt Thánh Ðiển Pāli này theo cách mà, ngay cả một người đi tìm Chân lý giản dị và mộc mạc nhất, vẫn có thể cảm nhận lợi ích, nếu không muốn nói là hơn, so với một học giả chất nặng mớ kiến thức suông. Như vậy, lậu hoặc (āsava) đã được mô tả bằng những hình ảnh mang đầy trí tuệ.

Trong sa mạc mênh mông, không một người có óc sáng suốt nào lại đi lấy một đụn cát làm tiêu điểm cố định để hướng dẫn các đoàn lữ hành vượt qua sa mạc cả. Những đụn cát luôn luôn thay đổi - chỗ là ngọn đồi hôm nay, có thể sẽ trở thành một lòng chảo lớn ngày hôm sau. Cuộc đời, do nghiệp (kamma) tác thành và dẫy đầy khổ đau, quá lắm cũng chỉ là một vết tích, một sân ga tạm thời do các lậu hoặc xây dựng, để rồi bị xóa nhòa đi.

Nếu lậu hoặc là mực, thì cuộc đời là dấu ấn hay vết in của nó trên trang giấy, dĩ nhiên là một dấu ấn nặng nề. Nó "thấm rỉ qua", để lại dấu trên trang kế. Trang giấy gọi là cuộc đời, được in rất nhẹ nhàng với những dấu ấn hay hoạt động của lậu hoặc nhưng lại hằn sâu trên những trang sau cũng như thế.

Ý niệm về sự tiết rỉ, thấm qua, hay ngấm dần qua liên quan mật thiết với cái ý niệm về các lớp, các cấp độ, các vùng và thời gian. Ðây chính là những gì mà khái niệm về cuộc đời trong Ðạo Phật muốn nói, tức là, một tiến trình hay quá trình liên tục từ đời này đến đời khác, qua những cảnh giới khác nhau, qua những cấp độ và cách thức vận hành khác nhau của cơ cấu tâm - vật lý. Hình ảnh năng động về cuộc đời này được gọi là luân hồi (saṃsāra), trong nghĩa trôi dạt hay lang thang vô định.

Trong Dhammapada (Pháp Cú), lậu hoặc là một từ đồng nghĩa của saṃsāra (luân hồi), nó làm nổi bật hoàn cảnh sống của con người, một cuộc sống không có nền tảng cố định cũng chẳng có một một mục đích nào cả. "Āsava" - lậu hoặc, đúng theo bản chất của nó, là chất thải hay chất mủ chảy ra, thấm rịn qua mà không chủ tâm, làm ô nhiễm mà không khiêu khích, gây tai họa mà không trừng phạt, làm cho phức tạp mà không hành hạ. Luân hồi cũng vậy. Do chính cái bản chất vô thường, vô ngãhữu vi của nó, nó làm cho tồn tại mãi một dòng trường viễn của những đơn vị tách biệt, không liên tục và rõ rệt của sanh hữu, gọi là cuộc đời.

Tựa như một vết thương, saṃsāra [1] (luân hồi) là một nỗi thống khổ cần được quan tâm chăm sóc. Một vết thương, khi chưa được chữa lành, từ nơi đó chất mủ tanh hôi cứ liên tục chảy ra, đó là một nỗi thống khổ, một sự bệnh hoạn. Lậu hoặc (Āsava) là một vết thương tinh thần, từ nơi đó những chất mủ tinh thần liên tục rỉ ra, bởi vậy nó biểu thị cho nỗi thống khổ, và nỗi thống khổ này đòi hỏi phải được quan tâm chăm sóc. Các lậu hoặc cũng được chăm sóc bằng cách "cho ăn" liên tục. Thức ăn (āhāra), là một từ đồng nghĩa của lậu hoặc (āsava) vì vậy nó cũng là từ đồng nghĩa của Saṃsāra (luân hồi).

Chữ "thức ăn" là một thuật ngữ trong Ðạo Phật, với những hàm ý triết lý rất phong phú, một cái gì đó duy trì và làm cho tồn tại mãi các lậu hoặc cũng như Saṃsāra (luân hồi). Có bốn loại thức ăn (āhāras), một thuần túy thuộc vật chất và ba loại còn lại thuộc tinh thần. Ðó là:

Kavalinkāra āhāra: Ðoàn thực - thức ăn nuôi dưỡng thân.
Phassāhara: Xúc thực.
Manosanñcetanāhāra: Niệm thực.
Viññanāhāra: Thức thực.

Bốn loại thức ăn này chung quy lại là một tiến trình nuôi dưỡng thân, tâm, nghiệp và tái sanh, như vậy, nó duy trì và làm tồn tại mãi các lậu hoặc cũng như luân hồi.

Pháp Cú Kinh đưa ra một mục đíchgiải thích mục đích ấy rất cụ thể. Mục đích duy nhất và có ý nghĩa nhất của cuộc đời, và do đó cũng là mục tiêu đích thực cho mọi nỗ lực tinh thần, là cái mà Pháp Cú gọi là Khināsava, trạng thái không còn lậu hoặc hay lậu tận. Một trưởng đoàn lữ hành thông minh phải lấy sao Bắc Ðẩu hay một tiêu điểm đáng tin cậy nào đó để định hướng khi băng qua những dãi đất vô tận của vùng sa mạc cằn khô và đầy hiểm họa, với nỗi kinh hoàng càng tăng thêm bởi những xác người hay xác thú nằm rải rác khắp mọi nơi - xác của những nạn nhân do lạc đường mà phải bỏ mạng. Tương tự, người đi tìm Chân lý phải lấy Tam Giải Thoát (Vimokkha), dẫn đến trạng thái lậu tận (Khīnāsava), như là phương tiện hay sự hướng dẫn duy nhấtđáng tin cậy nhất cho cuộc hành trình của vị ấy xuyên qua sa mạc luân hồi để đi vào Niết Bàn. Ba Giải Thoát (Vimokkha) đã được bàn luận tương đối đầy đủ (xem trang198). Ðó là những pháp đối lập hoàn toàn với lậu hoặc (āsava) đã được đề cập trong Sabbāsava Sutta (Kinh Tất Cả Lậu Hoặc).

II

Có rất nhiều bài kệ trong Pháp Cú trực tiếp đề cập đến các lậu hoặc. Các bài kệ này chỉ rõ trạng thái chuyển hóa tối thượng, nơi đây, các lậu hoặc bị đoạn tận, cũng như những pháp môn thực tiễn dẫn đến trạng thái đó. Những hướng dẫn này có thể giúp người tìm đạo quyết định dứt khoát, thực hiện từng bước tiến đều đặn từ vòng luân hồi nhiễm ô với những lậu hoặc, đến chiều kích hoàn toàn giải thoát khỏi lậu hoặc, tức Niết Bàn.

ít nhất mười bài kệ trình bày rõ nét cả mục đích lẫn con đường thoát khỏi lậu hoặc. Cũng có nhiều bài kệ đề cập một phần và gián tiếp hoặc đề cập cùng với các đề tài khác. Tuy nhiên, phương diện quan trọng nhất và đem lại lợi ích giáo dục cao nhất là ánh sáng phong phú mà nó soi rọi vào những bậc đã trở thành Khināsava - Bậc Lậu Tận. Ðiều gì thực sự xảy ra đối với một Bậc Lậu Tận, phẩm hạnh của vị ấy như thế nào, vị ấy ảnh hưởngtác động đến xã hội ra sao - đây là những câu hỏi được xem là có ý nghĩa vô cùng thực tiễn. Và Dhammapada, thực sự đã trả lời những câu hỏi ấy một cách trong sáng.

Chừng ấy thôi cũng đủ để thấy rằng, nếu có một cuốn sách nào đã từng được gọi là người bạn đường, một triết gia và một cuốn cẩm nang hữu ích, cuốn sách ấy phải là Pháp Cú (Dhammapada). Ðối với một người mộ đạo giản dị và chất phác, Pháp Cú cũng giống như một người cố vấn dễ mến và hiểu biết; đối với một học giả mang nặng kiến thức kinh viện, những câu châm ngôn minh triết và đầy ý nghĩa của Pháp cú vận dụng một ảnh hưởng khiêm tốn nhất, cũng như một triết gia lão luyện khuất phục được một nhà trí thức kiêu căng tự phụ vậy; và đối với người nhiệt tâm đi tìm Chân lý, Pháp cú là người hướng đạo bậc nhất (Par excellence).

Bài kệ được coi là trình bày một cách mạnh mẽ nhất, rõ ràng nhất và hùng biện nhất cái triết lý cơ bản của Pháp Cú, đối kháng với các lậu hoặc, là bài kệ số 93. Ðức Thế Tôn đã tuyên bố bài kệ này như phần kết của bài pháp mà Ngài giảng trong lúc ngụ tại Veluvana, Trúc Lâm - khu rừng trúc thuộc hoàng gia rất nổi tiếngRājagaha (Vương Xá Thành), do Ðức Vua Bimbisāra (Tần bà sa la) xứ Magadha (Ma kiệt đà) dâng tặng. Ðức Phật công bố:

"Ai lậu hoặc đoạn sạch,
Ăn uống không tham đắm.
Tự tại trong hành xứ,
Không, Vô tướng, Giải thoát.
Như chim giữa hư không,
Dấu chân thật khó tìm."
-- (Pháp Cú 93)

Thực vậy, bài pháp này có một bối cảnh rất lý thú, liên quan đến Tôn giả Anuruddha (A nậu lâu đà), một trong tám mươi vị Ðại Thanh Văn (Mahāsāvaka) đệ tử Phật, người đã phải chịu sức ép nặng nề do các vị Tỳ khưu ưa ganh tỵchỉ trích tác động. Tôn giả Anuruddha là anh bà con của Ðức Phật. Tôn giả được nuôi dưỡng trong nếp sống xa hoa rất mực từ thuở nhỏ, và thực sự được chọn là người thừa kế tuyệt đối của Vương Tộc Thích Ca (Sakya), một địa vị mà lẽ ra chính Gotama (Ðức Phật) phải đảm đương, nếu Ngài không từ bỏ ngai vàng để thành Phật, Bậc pháp vương (Dhammarāja).

Anuruddha vô cùng cảm kích trước tấm gương cao quý của Ðức Như Lai (Tathāgata) đến độ chàng quyết tâm từ bỏ thế gian để tự mình đi tìm Chân lý. Việc một vị hoàng tử mảnh mai yếu đuối như Ngài chọn đời sống khổ hạnh của một Sa môn đã khiến cho cha mẹbà con thân quyến của Ngài lấy làm e ngại không ít.

Bất chấp mọi sợ hãi, Tôn giả dấn thân vào đời sống độc cư trong một ngôi thảo am tận rừng sâu tiêu biểu cho lối sống khổ hạnhtiết chế tuyệt đối. Tôn giả sống bằng thức ăn khất thực xin từ những gia đình nghèo khổ và khiêm tốn nhất sống ở những ngôi làng xa xôi trong rừng. Tôn giả mặc những tấm y phấn tảo (pansakula) làm từ những mảnh vải người ta vứt bỏ trong nghĩa địa hay ở các đống rác. Tôn giả tự mình khâu những miếng vải phế thải ấy thành những tấm y rồi đem nhuộm trong một loại thuốc nhuộm được pha chế từ những vỏ cây tuyển chọn trong số những cây rừng. Tôn giả sống trong một túp lều tre lợp tranh. Ngoài những gì Ngài mặc và bình bát khất thực ra, Ngài không sở hữu gì nữa cả.

Không bao lâu, Tôn giả Anuruddha chứng đắc A-la-hán quả cùng với các thần thông, và trở thành bậc tối thắng trong số những vị đắc thắng trí. Ngoài sự cao quý và những khả năng tâm linh ấy, Tôn giả còn nổi tiếnglòng từ bi đối với người nghèo khổ. Trung thành với lý tưởng của Bậc Ðạo Sư, Tôn giả du hóa hết nơi này đến nơi khác, thuyết pháp (Dhamma), vì hạnh phúc của số đông, vì sự an lạc của số đông. Mặc dù có rất nhiều thiện tín mến mộ và theo Tôn giả khắp nơi trong nước, tuy nhiên không bao giờ Ngài lưu lại một trú xứ quá lâu, kể cả ngôi thảo am của Ngài ở trong rừng cũng vậy.

Một hôm, nhân vì những tấm y Tôn giả mặc đã quá cũ và sờn chỉ nhiều nơi, Ngài phải đi tìm vải bỏ trong những đống rác. Bất ngờ, trong một đống rác, Ngài thấy góc của một tấm vải ló ra. Khi lấy ra, Ngài thấy đó là ba xấp vải, đủ để may một bộ tam y. Thật là một sự ngạc nhiên đầy lý thú đến nỗi Tôn giả phải thốt lên: "Thật tuyệt vời làm sao là tấm vải Pansakula này!"

Pansakula (phấn tảo vật) nghĩa đen là một miếng vải quăng trong nghĩa địa, tức là, những gì bị loại ra như một vật hoàn toàn vô dụng. Chỉ có những vị sư nào ưa thích đời khổ hạnh, nguyện thực hành các pháp đầu đà, mới mặc những tấm y Pansakula (phấn tảo y) này.

Chú giải nói rằng xấp vải Pansakula đặc biệt này là do nàng thiên nữ Jàlini trên thiên cung Tāvatimsa (Ðao lợi) đem đặt ở đó. Tôn giả Anuruddha là một vị Tỳ khưu đại phước. Do vậy Tôn giả rất được kính trọng, không những chỉ với loài người mà cả hàng chư thiên cũng vậy. Và thiên nữ Jàlini này có quan hệ với Tôn giả trong quá khứ, nàng là vợ trong tiền kiếp thứ ba của Tôn giả.

Chú giải Pháp Cú giải thích thật lý thú về sự kiện đặc biệt này như sau. Dường như là, khi Tôn giả Anuruddha đang đi tìm vải phấn tảo (Pansakula) để may y, thiên nữ Jàlini, để ý thấy liền hóa hiện ra tấm vải đúng theo nhu cầu và tự nhủ: "Nếu ta công khai cúng dường xấp vải này đến Trưởng lão, e rằng Ngài sẽ không nhận. Vì vậy ta hãy đem dấu nó trong một đống rác nào đó ở trước mặt, trên đường Ngài sẽ đi tới." Và, nhờ năng lực thần thông của mình mà nàng đã khéo léo làm cho Trưởng lão phải chấp nhận tấm vải ấy như thế này.

Ðức Phật nhân biết được, bằng cách nào mà việc cúng dường đặc biệt này đã được thực hiện, liền tổ chức một cuộc may y cho Tôn giả Anuruddha vô cùng ý nghĩa. Chính Ðức Phật và tám mươi vị Thanh Văn Ðại Ðệ Tử của Ngài, cùng với năm trăm vị Tỳ khưu khác, đã đến ngôi chùa nơi việc may y này diễn ra. Tôn giả Xá Lợi Phất (Sāriputta), Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên (Mahā Moggallāna), Tôn giả Ðại Ca Diếp (Mahā Kassapa), ngồi quanh tấm vải và tự tay Bậc Ðạo Sư xỏ mũi kim đầu tiên để khai mạc buổi may y hôm ấy.

Khi các vị Tỳ khưu đang bận rộn trong việc cắt may y như vậy, thiên nữ Jālini đi đến ngôi làng gần đó để đánh thức mọi người dậy. Nàng dùng thần lực phóng ý nghĩ của mình đến họ, nói rằng: "Này các bạn, để may y cho vị Trưởng lão cao quí của chúng ta, chính tự tay Ðức Phật, tám mươi vị Ðại Thanh Văn của Ngài và năm trăm vị Tỳ khưu khác đã câu hội trong ngôi chùa của chúng ta (để làm việc ấy). Các bạn hãy tận dụng cơ hội quan trọng này để tích tập công đức hiếm có nhất bằng cách cúng dường vật thực đến hội chúng các Bậc Thánh Tối Thuợng, có Ðức Phật là tọa chủ này. Hãy đi đến chùa và cúng dường vật thực nhanh lên!"

Như vậy, sau khi biết sự có mặt của Ðức Phật và các Bậc Thượng Thủ Thanh Văn, với sự khẩn trương và lòng thành kính, tất cả mọi cư dân trong làng đều chuẩn bị bữa ăn tinh khiết nhất mà họ có thể thực hiện được trong một thời gian nhanh nhất. Xong xuôi, họ mang thức ăn đến chùa, mọi người thành kính cúng dường bữa ăn đặc biệt này với lòng tràn đầy hoan hỷ. Sau bữa ăn, rất nhiều vật thực còn dư lại.

Khi các vị trưởng lão còn đang bận rộn để hoàn tất công việc may y, một vài vị Tỳ khưu tính ưa chỉ trích, hoàn toàn vì lòng ganh tỵ và xoi mói đã chỉ trích cái mà họ nghĩ là một việc làm phung phí. Thực vậy, họ đưa ra lời buộc tội mà có lẽ do một thoáng sai lầm thành ganh tỵ, họ nói rằng: "Tại sao lại bắt mọi người đem đến đây một lượng thức ăn khổng lồ đến như vầy? Sao không lượng định trước số thức ăn cần đến là bao nhiêu rồi hãy hướng dẫn thân quyếnthiện tín: 'vui lòng đem đến chừng ấy, chừng ấy' có phải là hợp lý hơn không! Có lẽ muốn khoe rằng ta đây có đông quyến thuộcthiện tínTrưởng lão Anuruddha chắc hẳn đã bảo đem đến nhiều thức ăn như vậy."

Nghĩ cho cùng thì lời buộc tội phi lý và khiếm nhã kia chỉ khơi dậy trong lòng các Bậc Thánh tôn quí một niềm hiểu biết cảm thông mà thôi. Các Ngài biết ngay cả mặt trờimặt trăng còn phải chịu để cho những đám mây đen, dù thoáng qua kia, che khuất, huống nữa là một bậc Thánh như Tôn giả Anuruddha, phải đương đầu với những lời chỉ trích không đáng từ những tâm hồn nhỏ nhen và thiếu hiểu biết, cũng chỉ là chuyện thường tình trong thế gian vậy thôi.

Ðức Phật, vì lòng bi mẫn vô biên của Ngài, đã tận dụng cơ hội này không phải chỉ để loại trừ điều ác đang áp đảo tâm các vị Tỳ khưu ấy, mà quan trọng hơn cả, để làm hiển lộ sự vinh quangtrạng thái lậu tận ban tặng cho những ai đã thành tựu sự toàn bích tối thượng.

Chính vì vậy mà Bậc Ðạo Sư hỏi các vị Tỳ khưu ưa tìm lỗi đó: "Này các Tỳ khưu, các người thực sự tin rằng Anuruddha đã bảo mọi người đem đến lượng thức ăn như vầy sao?"

"Thưa vâng, bạch Ðức Thế Tôn", họ đáp.

"Này các Tỳ khưu, con Ta, Anuruddha không bao giờ nói theo cách mà các ngươi nghĩ đâu. Thực sự là vậy, các Bậc Lậu Tận không bao giờ đặt nặng vào những vấn đề như tứ vật dụng này. Việc cúng dường vật thực này thực ra hoàn toàn do thần lực của một vị thiên nữ tạo ra." Và sau đó Ðức Thế Tôn công bố bài kệ này:

"Ai lậu hoặc đoạn sạch,
Ăn uống không tham đắm.
Tự tại trong hành xứ,
Không, Vô tướng, Giải thoát.
Như chim giữa hư không,
Dấu chân thật khó tìm."

Có một vài điểm rất quan trọng và thực tiễn từ sự kiện này, dẫn đến việc Ðức Thế Tôn tuyên bố bài kệ trên. Chúng ta nên nhớ rằng sự toàn bích luôn luôn gây ra những phản ứng đối nghịch, người này thích, người kia không thích. Nó cũng thu hút sự quan tâm và trợ giúp của các năng lực siêu nhiên. Trái lại, các lậu hoặc (āsava) chỉ gây ra những khó khăn và bất hạnh.

Vị thiên nữ trong câu chuyện, và giống như nàng, các vị chư thiên khác kể cả Sakka (Ðế Thích), vua của chư thiên (Devarāja: Thiên vương), đều rất ao ước được phục vụtôn kính Thánh Tăng Anuruddha. Và dĩ nhiên, cũng có những kẻ hay phỉ báng, những người mà do điên đảo tưởng bén rễ trong các lậu hoặc, đã gây ra những chuyện xấu xa, như đã đề cập ở trên.

Trong một thế giới lưỡng phân, những đối nghịch như vậy là điều không thể tránh được. Tuy nhiên, điều quan trọng là cái tích cực vẫn mạnh hơn, có sức thuyết phục hơn và đẹp hơn.

Āsava (lậu hoặc) cũng là sức mạnh, nhưng sức mạnh của nó là để giam giữ con người trong thân phận nô lệ của kiếp luân hồi mà thôi. Tuy nhiên, bất cứ ai thành công trong việc tuệ tri các pháp nuôi dưỡng lậu hoặc, và rồi được giải phóng khỏi nó do không còn bị trói buộc hay luyến ái đối với với chúng, sẽ tích tập một sức mạnh được xem là có tiềm năng rất lớn.

Khi một người không còn bị trói buộc vào bốn loại thức ăn (āhāra), nhờ thường xuyên hướng đến Tam Giải Thoát (Vimokkha), như vậy đã trở thành Bậc Lậu Tận, đã hoàn toàn giải thoáttự tại trong cuộc đời này. Bậc Lậu Tận không lưu lại dấu vết của những pháp nào tiếp tục mở ra con đường phía trước để rập bẫy con người vào trong tiến trình trôi dạt bất tận (vòng luân hồi). Giống như chim trên hư không, vị ấy, sau khi đã thành tựu cuộc "đột phá" vào Niết Bàn, không lưu lại dấu vết gì để có thể còn thấy được trong vòng luân hồi này.

-ooOoo-


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11833)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11012)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11217)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11950)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12416)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10630)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17831)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11601)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9832)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10084)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12250)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15221)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11095)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14187)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11960)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15152)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11858)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12302)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11069)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11971)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10491)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12442)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13020)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14652)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12534)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16375)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19412)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12994)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12545)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12147)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11693)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10780)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13365)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11848)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11722)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11490)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12622)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14365)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12479)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15516)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13461)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12751)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9743)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17852)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11038)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8958)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12067)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12911)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10202)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12072)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15152)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16478)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12093)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11354)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14113)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19496)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14036)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24375)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10573)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant