Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

11. Chương 3: Phương Cách Lắng Nghe và Lý Giải về Giáo Pháp của Đức Phật

Wednesday, September 12, 201200:00(View: 18335)
11. Chương 3: Phương Cách Lắng Nghe và Lý Giải về Giáo Pháp của Đức Phật
Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 1
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Thượng)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎

Chương 3: Phương Cách Lắng Nghe và Lý Giải về Giáo Pháp của Đức Phật

 

III. Phương cách lắng nghe và lý giải về giáo pháp.

A. Phương cách lắng nghe Phật pháp theo cách qua đó cả giáo pháptác giả đều cao quý

1. Suy tưởng về lợi ích của việc lắng nghe phật pháp

2. Phát triển sự tôn kính giáo pháp và người hướng dẫn

3. Phương pháp thực sự lắng nghe

a. Từ bỏ ba khuyết điểm của một cái thùng chứa

b. Phụ thuộc vào sáu ý niệm

  1. Phương cách giảng giải Phật pháp theo cách qua đó cả giáo pháptác giả đều cao quý

1. Suy tưởng về lợi ích của việc giảng giải Phật pháp

2. Phát triển sự tôn kính Thầy và giáo pháp.

3. Với tư duy và cách ứng xử nào khi giảng giải Phật pháp.

4. Phân biệt người nên hay không nên giảng giải Phật pháp.

  1. Phương cách kết thúc một thời giảng trong liên hệ giữa lắng nghe và giảng giải Phật pháp.

 

––––\––––

A. Phương cách lắng nghe Phật pháp theo đó cả giáo pháptác giả đều cao[1] quý

Làm sao để lắng nghe phật pháp được giảng giải trong ba phần:

  1. Suy tưởng về lợi ích của việc lắng nghe phật pháp
  2. Phát triển sự tôn kính Phật pháp và người hướng dẫn
  3. Phương pháp thực sự lắng nghe

 

1. Suy tưởng về lợi ích của việc lắng nghe Phật pháp

Thi Kệ Lắng Nghe (Śrutivarga) trong Tiểu Bộ Kinh (Udâna-varga) nói rằng:1

 

Nhờ lắng nghe, hiện tượng thấu hiểu

Nhờ lắng nghe, sai quấy vượt qua

Nhờ lắng nghe, vô nghĩa tiêu trừ

Nhờ lắng nghe, Niết-bàn đạt đạo [21]

 

Và:

 

Như người ở kín trong nhà

Vây quanh phủ đầy bóng tối

Có mắt đó nhưng nào thấy

Sắc hình hiện hữu kia đâu,

 

Cũng như người sanh trong dòng quý phái

thông minh mang sẵn theo cùng

Cũng đâu hiểu được đến khi được chỉ

Đâu là điều thiện, đâu là không

 

Cũng như người với đôi con mắt

Nhìn sắc hình nhờ ngọn đèn tỏ soi

Nên nhờ lắng nghe điều thiện là gì và những gì không phải

Người sẽ hiểu chuyện cần thiết phải làm.

 

Cũng như thế, Bổn Sanh Kinh (Jâtakamâlâ) nói rằng[2]

 

Nhờ lắng nghe, ngươi trở nên người thành tín

Niềm vui trong đạo hạnh khiến lòng kiên định

Trí huệ bừng lên và tan biến vô minh

Đây chính là điều giá trị thật đáng có

Cho dẫu đổi bằng xương thịt của chính ta.

 

Lắng nghe {tức là phần của Văn trong Văn, Tư, Tu} là ngọn đèn xóa tan tăm tối vô minh

Tài sản tối thượng mà kẻ cắp không tài nào lấy được,

Một vũ khí đánh tan kẻ thù của bối rối;

Đó là người bạn tốt nhất, cho ta những giáo huấn cá nhân[3], những phương tiện kỹ xảo.

 

Là bằng hữu không rời bỏ lúc ngươi cần đến,

Một dược chất không hại trị bệnh buồn rầu

Là đại chiến tiêu diệt quân đầy tội lớn

vinh quang, là vẻ vang và trang bảo

Là quà tặng tối thượng khi gặp thánh giả

Trong một hội chúng; ôi! Thật hoan hỷ với bậc thắng tri

 

 

Và:

 

Kết quả của lắng nghe là ngõ vào chánh hạnh;

Ngươi sẽ được giải thoát, với ít khó khăn, khỏi thành trì của tái sanh

 

Hãy phát triển tinh tấn từ tận đáy lòng mình khi đề cập đến lợi ích của việc lắng nghe {giáo pháp}.

 

Ngoài ra, Ngài Vô Trước trong Bồ-tát Địa (Bodhisattva-bhûmi)[4] nói rằng các vị phải lắng nghe với năm điều tâm niệm; nghĩa là: với (1) tâm niệm về một bảo vật, bởi vì giáo pháp là hiếm quý và ít khi Đức Phật xuất hiện cùng giáo pháp của Ngài; (2) tâm niệm về một con mắt, bởi vì trí huệ khởi sanh cùng với sự lắng nghe giáo pháp nên càng lúc càng tăng trưởng; (3) tâm niệm về tỏa sáng, là do con mắt trí huệ đã, đang và sẽ khởi sanh đó sẽ nhận thức được bản chất thực sự [tính Không] và sự phân hóa [của mọi hiện tượng {các pháp}]; (4) ý niệm về lợi ích lớn lao, cũng vì kết quả cuối cùng của giáo pháp là Niết-bàn và đại ngộ;[22] và (5) ý niệm về không chỉ trích, do ngay từ khoảnh khắc này quý vị sẽ đạt được hỷ lạc của định từ thiền[5]trí huệ, đạt được nhân của Niết-bàn và đại giác ngộ. Đây chính là những suy ngẫm về lợi ích của việc lắng nghe giáo pháp Phật.

 

2. Phát triển lòng tôn kính Phật pháp và người hướng dẫn

Kinh Địa Tạng (Kṣitigarbha-sûtra) nói rằng:[6]

 

Lắng nghe Pháp bằng nhất tâm tin tưởngtôn kính

Đừng chế nhạochỉ trích người giảng cho mình

Hãy vinh danh những người hướng dẫn –

Phát triển tâm xem họ như những Phật-đà.

 

Như vậy, theo cách nói này, hãy xem người hướng dẫn như là đức Phật. Xoá bỏ hết mọi bất kính, trân trọng sự hiện diện bằng cách quỳ lạy và dâng tặng những đồ vật như sư tử hay những vật tương tự.

Cũng như vậy, theo Bồ-tát Địa, lắng nghe lời giảng không có phiền não [của sự kiêu ngạo và khinh thường] và không mang trong tâm năm điều kiện của một người hướng dẫn[7]. Không kiêu ngạo nghĩa là lắng nghe với sáu thuộc tính sau: (1) lắng nghe ở một thời điểm thích hợp, (2) tỏ sự hồi hướng, (3) tỏ sự tôn kính, (4) không tức giận, (5) thực hành đúng như lời huớng dẫn và (6) không tìm cơ hội để tranh cãi. Không khinh rẻ nghĩa là kính trọng giáo pháp cùng người giảng dạy và không làm giảm giá trị của cả hai. Đừng mang vào tâm trí mình năm điều kiện nghĩa là bỏ đi những ý nghĩ “Tôi sẽ không nghe lời người này giảng bởi vì vị này (1) đã vi phạm những nguyên tắc đạo đức, (2) thuộc về một truyền thống yếu kém,(3) có một thể ngoại hình không hấp dẫn, (4) không phân minh không rõ ràng, (5) hay là nói lời thô thiển và khó chịu”.

Cũng như trong Bổn Sinh Kinh có đề cập:[8]

 

Hãy ngồi trên ghế thấp.

Biểu trưng vinh quang của giới luật.

Nhìn với đôi mắt hoan hỷ,

Bày tỏ kính trọngnhất tâm tuân phục,

Tựa như khi uống những lời cam lồ.

Tỏ lòng tôn kính và lắng nghe giáo pháp

Với lòng hoan hỷ trong sángtâm không phiền não,

Như khi bệnh nhân lắng nghe lời khuyên của người thầy thuốc.

 

3.Phương pháp thực sự lắng nghe

Làm sao để lắng nghe gồm có hai phần:

 

a. Từ bỏ ba khuyết điểm của một cái thùng chứa

b. Dựa trên sáu tâm niệm

 

a. Từ bỏ ba khuyết điểm của cái thùng chứa

 

Một cái thùng chứa có thể có ba khuyết điểm sau: (1) bị úp ngược, hay là (2) dù được dựng đứng thẳng, nhưng dơ bẩn; hoặc (3) dù sạch nhưng có lỗ thủng ở đáy. Nếu có những lỗi này, ngay cả khi mưa rơi xuống từ những đám mây do các Giác thể tạo nên thì mưa cũng: (1) không lọt vào bên trong thùng; [23] hay là, (2) lọt vào bên trong thùng chứa, nhưng không thể làm tròn nhiệm vụ của mình – nghĩa là có thể uống được v.v... bởi vì nó nhiễm những chất dơ; hoặc (3) không nhiễm những chất dơ, nhưng không giữ được vì bị chảy ra ngoài. Tương tự như vậy, ngay cả khi các vị ở một nơi mà giáo pháp được giảng giải, sẽ không có mục đích cao quý trong khi lắng nghe lời giảng nếu các vị (10) không chú tâm; hay (2) dù chú tâm, nhưng hiểu lầm những gì đã nghe hay nghe với động cơ xấu như tham chấp; hoặc (3) dù không các lỗi trên, nhưng đã không thấm nhuần ý nghĩa của lời giảng lúc nghe mà để phai mờ đi vì lãng quên và v.v… Vì vậy, các vị phải tránh tất cả các lỗi trên.

 

Phương thuốc để trị liệu cho các khuyết điểm này được hướng dẫn trong kinh điển trong ba cụm từ sau: “Lắng nghe chú tâm, một cách xuyên suốt và ghi nhớ trong tâm!”[9] Thêm vào đó, như trong Bồ-tát Địa có nói[10], lắng nghe khi mình muốn hiểu tất cả mọi sự, duy trì nhất tâm, chú ý, với tâm trí tập trung và suy ngẫm với sự bình thản hoàn toàn.

 

b. Dựa trên 6 điều tâm niệm

 

1. Hãy nghĩ mình là một bệnh nhân. Tịch Thiên trong Nhập Bồ-đề Hành Luận (Bodhisattva-caryâvatâra) nói rằng:[11]

 

Vì các ngươi phải theo lời thầy thuốc khuyên bảo,

Ngay cả phải chịu những giới hạn của bệnh thông thường,

Cần thiết phải đề cập với người hay bị tác động

Về bệnh do lỗi lầm, tham đắm và tương tự sanh ra

 

Như Tịch Thiên nói, các vị đã bị vướng từ lâu vào căn bệnh phiền não như tham đắm – một căn bệnh kéo dài, khó trị và tạo nên đau khổ đậm sâu. Vì vậy, các vị phải nhận ra đây là tình trạng của mình. Ga-ma-pa (ka-ma-ba) nói rằng nếu thực sự các vị không có bệnh, thì sự thiền về cái đau đớn đó là sai lầm. Tuy nhiên, bị tác động bởi căn bệnh khó trị và kinh niên của tam độc [tham, sân và si], các vị thực sự đau khổ cùng cực nhưng không nhận thức được là mình đang đau khổ.

 

2. Hãy nghĩ người dạy là một thầy thuốc. Thí dụ, khi bị bệnh nặng như đầy hơi hay rối loạn về mật, các vị phải đi tìm một thầy thuốc giỏi. Sau khi tham khảo ý kiến, các vị vô cùng hoan hỷ và lắng nghe tất cả những gì thầy thuốc nói, hết một lòng kính trọng. Tương tự như thế, tầm học theo cách này là tầm thầy truyền đạt giáo pháp [24]. Khi các vị đã tìm được ra thầy, hãy kính trọng thầy hết lòng và làm như những gì được chỉ bảo. Khi làm như thế phải xem đó là một đặc ân chứ không phải là gánh nặng. Thế nên, kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tổng Lược Bát Thiên Kệ {Ârya-prajñâpâramitâ-ratnaguṇa-sañcaya-gâthâ} nói rằng:[12]

 

Vì vậy, Bồ-tát thông tuệ - người có ý chí mạnh mẽ tìm kiếm giác ngộ siêu việt – sẽ quyết tâm xóa sạch kiêu mạng. Giống như người bị bệnh phải nương nhờ vào các thầy thuốc để được lành bệnh, các người phải nương vào một vị thầy, tự mình ứng dụng những lời dạy một cách tinh tấn.

 

3. Hãy nghĩ lời giảng giải của người hướng dẫn như là dược phẩm. Bệnh nhân thường coi trọng những dược phẩm do thầy thuốc kê toa, các vị cũng phải như vậy, phải xem những lời hướng dẫn, những giảng giải cẩn thận thầy trao là rất quan trọng, luôn cố giữ với lòng kính trọng và đừng phí phạm thì giờ bằng những sai sót như bỏ quên chúng đi.

 

4. Hãy suy nghĩ thực hành nghiêm túc là phương cách để chữa bệnh. Bệnh nhân biết rằng bệnh không thể chữa được nếu không uống thuốc theo toa kê của thầy thuốc. Nên họ uống thuốc. Tương tự như vậy, hãy thực hành nghiêm túc khi các vị nhận thấy rằng mình không thể xóa đi những phiền não như tham đắm mà không thực hành những lời chỉ giáo của thầy. Đừng cống hiến trọn đời xếp đầy chữ nghĩa lên thành đống mà không hề thực hành.

 

Vả lại, một hay hai liều thuốc sẽ không giúp được gì hết cho người bị bệnh phong cùi đã rụng hết tay và chân. Tương tự như vậy, đưa vào thực hành một bài học chỉ một hay hai lần thì không làm sao đủ được cho các vị - những người từ vô thủy đã bị tác động bởi cơn bệnh phiền não. Vì thế, phân tích với trí huệ thấu suốt toàn cả mọi khía cạnh của lộ trình tu tập và làm với tất cả tinh tấn miệt mài như nước chảy một dòng sông. Như Đại Sư Candragomin {Nguyệt Quan} trong Tuyên Nhập Tụng (Deúanâ-stava) nói rằng:[13]

 

Tâm thức ta luôn thường bối rối

Bởi do mình đau bệnh đã lâu

Người bệnh hủi đạt tới gì đâu? 

Mất chân tay, thuốc lại ít dùng? [25]

 

Thế nên, ý niệm chính mình là người bệnh thật là vô cùng quan trọng, bởi vì khi các vị có ý niệm này thì những ý tưởng khác sẽ tiếp theo. Tuy nhiên, nếu ý niệm này chỉ thuần là lời lẽ, thì các vị sẽ không đem những ý nghĩa của lời giảng dạy vào thực hành để xóa tan đi phiền não, nên chỉ là người chỉ biết nghe mà thôi. Điều này giống như người bệnh tìm đến ông thầy thuốc. Nếu người ta chỉ mua thuốc theo toa mà không uống, thì sẽ không bao giờ lành bệnh. Như trong Định Vương Kinh:[14])

 

Có người bệnh, toàn thân đau đớn

Trong nhiều năm không bớt tạm thì

Do mãn tính, bệnh nhiều phiền não

Họ tầm thầy tìm phương chữa trị

 

Tầm cầu thầy, và tìm thêm mãi

Sau tìm thấy thầy thật mát tay

Chữa bệnh nhân với cả tâm từ

Rồi dịu nói: “thuốc đây hãy uống”

 

Thuốc công hiệu và đầy giá trị

Chữa dứt căn nhưng người bệnh không dùng

Đây không phải lỗi do thầy chữa,

Cũng chẳng đâu lầm tại thuốc thang

Thật lỗi chỉ tại người có bệnh

 

Tương tự vậy khi các vị xuất gia

Để tu học những giáo pháp này

Và đến khi biết đầy năng lực,

An định thiền và các khả năng 

Làm sao ta đến được Niết-bàn

Nếu thiếu đi tinh tấn tu thiền

Như nỗ lực hướng về điều đúng?

  

Cũng như:

 

Tôi đã giải thích giáo pháp rất hay này

Nếu đã nghe, vẫn không thực hành cho đúng,

Chỉ như người bệnh giữ trên tay gói thuốc

Bệnh tình kia chẳng thể nào chữa dứt được

 

Và, Tịch Thiên trong Nhập Bồ-đề Hành Luận:[15]

 

Hãy thật sự thực hành lời hướng dẫn;

Được chi đâu khi chỉ nói lan man?

Người bệnh kia có thuyên giảm chút nào?

Khi chỉ đọc thông tin về bệnh trạng?

 

Vì thế, nhóm chữ “thực hành nghiêm túc” trong mệnh đề “Hãy xem thực hành nghiêm túc là phương cách tẩy sạch căn bệnh phiền não” có nghĩa là đưa vào thực hành những bài học thầy đã dạy cho quý vị về những gì phải tiếp thụ và những gì phải để sang một bên. Để làm được điều đó, các vị phải biết rõ bài học; để có được điều này, các vị phải học. Mục đích của hiểu biết xuyên qua học chính là hành. Vì thế cho nên, thật là hữu diệu đem ý nghĩa của những gì ta đã nghe vào thực hành nhiều đến mức mình có thể. [26] Trong ý hướng này, theo Thi Kệ Lắng Nghe:[16]

 

Ngay cả khi các vị nghe giảng thật nhiều

Nếu vẫn không kiềm chế mình theo giới luật

Thì vì thế vẫn bị chế nhạo khinh khi

Và điều học được cũng chẳng gì xuất sắc.

 

Dẫu khi các vị nghe giảng rất có hạn,

Nếu vẫn luôn kiềm chế mình trong giới luật

Thì vì thế vẫn được tôn trọng, xưng tán

Và như vậy điều đã nghe thật tuyệt luân.

 

Những ai vốn đã không nghe giảng được nhiều

Mà lại chẳng kiềm chế thuận theo giới luật

Thì vì thế bị chê bỏ về cả hai

đạo đức như thế là không tốt đẹp

 

Những ai vốn đã nghe diệu pháp thật nhiều

Và lại cũng kiềm chế mình theo giới luật

Được tôn vinh, xưng tán trên cả hai điều

đạo đức như thế thật là tuyệt mỹ

 

Thêm nữa:

 

Dù các vị có thể hiểu kinh do nghe

Và có thể hiểu cốt tủy của thiền định

Kiến thức và việc nghe không quan trọng chi

Nếu các vị làm những hành vi thô thiển

 

Ai hoan hỷ với lời dạy từ tôn giả

Và rồi thực hành với cả khẩu cùng thân

Ai nhẫn nhịn, vui cùng bạn hữu và sống đời đạo đức

Rồi sẽ đạt được toàn thiện trong lắng nghe và hiểu biết.

 

Thâm Tâm Cảnh Tỉnh Kinh (Adhyâúaya-saṃcodana-sûtra) cũng đề cập:[17]

 

Người thiếu khôn ngoan sẽ đau đớn trong giờ tử biệt

Bảo: “Tu hành tôi yếu kém. Giờ sẽ phải làm sao?”

Không tìm hiểu sâu xa, nên gặp muôn vàn đau khổ

Đó chính là lỗi lầm khi chỉ biết lý thuyết suông

 

Thêm nữa:

 

Không có gì bổ trên vỏ mía cây

Vị ngọt thơm lành từ bên trong ruột

Nên một người chỉ chuyên ăn vỏ

Sẽ chẳng bao giờ biết mật mía ngon.

 

Lý thuyết giống như những gì ngoài vỏ

Vị ngon là quán chiếu nghĩa sâu xa

Nên hãy bỏ đi văn vẻ bề ngoài

Luôn cẩn thận và suy lường thâm ý. [27]

 

5. Nghĩ Như Lai như là một bậc xuất chúng. Phát triển lòng kính trọng bằng cách luôn nhớ nghĩ đến Như Lai [đức Phật], người đã thiết lập nên giáo pháp.

 

6. Uớc mong giáo pháp tồn tại trong thời gian dài. Hãy nghĩ: “Tùy thuộc vào phương cách các vị tu học các giáo pháp như thế, thật là tuyệt diệu nếu giáo pháp của Bậc Chiến Thắng ngự trị trên thế giới này trong thời gian dài!”.

Thêm vào đó, khi các vị giảng giải hay lắng nghe giáo pháp, nếu tâm ta và giáo pháp cách xa thì cho dù giải thích cách nào đi nữa cũng chỉ là vụn vặt thôi. Thế nên, hãy nghe trong phương cách mà các vị khẳng định định luôn trong tâm tưởng làm cách nào để đem những lời giảng dạy này áp dụng vào đời. Thí dụ, khi các vị muốn tìm liệu có dấu vết dơ, bụi, hay bất cứ gì, trên khuôn mặt mình, thì phải nhìn vào gương và tẩy đi những gì nhìn thấy. Tương tự như vậy, khi nghe những lời giảng dạy, những lỗi lầm của các vị như làm điều sai quấy và tham đắm {chấp thủ} xuất hiện trên tấm gương của giáo pháp Vào lúc đó, các vị hối tiếc là tâm mình đã trở nên như thế, và tự mình tìm cách xóa bỏ lỗi đó đi và tạo những tính tốt. Vì thế, quý vị phải được tu tập trong giáo pháp. Kinh Bổn Sanh:[18]

 

Khi tôi nhận ra lỗi lầm mình có

Rõ ràng từ tấm gương giáo pháp

Tôi mang cảm giác hối tiếc ngập tràn

chuyển tâm mình về nguồn giáo pháp.

 

Với lời xác định này Saudana đã thỉnh cầu Hoàng tử Sutasoma ban dạy giáo pháp. Ngay sau đó, vị hoàng tử Bồ-tát biết được tâm của Saudana – nghĩa là nhận ra Saudana sẵn sàng nghe pháp nên đã ban cho lời thuyết giảng.

Tóm lại, phát triển tinh thần giác ngộ, hãy phát tâm:

 

Vì lợi ích cho tất cả chúng sinh hữu tình, con sẽ thành phật. Để đạt được điều này, Con phải tu tập những nhân duyên của nó {nhân duyên dẫn đến giác ngộ}; nên con phải biết rõ những nhân duyên đó. Vì tâm nguyện này, đó là chứng cứ khiến con phải lắng nghe các pháp giảng. Do đó, con sẽ lắng nghe các giáo pháp.

 

Hãy nhớ kỹ lợi ích của lắng nghe. Xoá bỏ đi lỗi lầm của cái thùng chứa và v.v…và lắng nghe với cả lòng hoan hỷ.

 

B. Phương cách giảng pháp làm sao qua đó người nghe thấy cả giáo pháptác giả cùng cao quý

 

Có bốn phần trong phương cách này:

  1. Suy tư về lợi ích của việc giảng pháp
  2. Phát triển sự tôn kính Thầy và Phật pháp
  3. Giảng pháp với suy tưởng và cách ứng xử nào?
  4. Phân biệt giữa người mà các vị nên hay không nên giảng pháp

 

1. Suy tư về lợi ích của việc giảng pháp [28]

Thật là nhiều hữu ích để truyền đạt giáo pháp mà không chú trọng đến những gì thuộc về thế gian như: lợi nhuận, danh dự, danh tiếng và những điều giống như thế. Như trong Thâm Tâm Cảnh Tỉnh Kinh đề cập:[19]

 

Này Di-lặc, có hai mươi lợi ích trong việc bố thí pháp nếu các vị tặng pháp mà không để ý tới vật chất, lợi nhuận hay danh dự. Hai mươi điều đó là gì? Được kể ra như sau. thí chủ sẽ có được (1) trí nhớ; (2) trí thông minh; (3) hiểu biết;(4) an định; (5) trí huệ; (6) trí huệ siêu việt; (7) ít tham {thiểu dục}; (8) ít sân {thiểu sân}; và (9) ít si {thiểu si}. Cùng với (10) ma quỷ không tìm ra cơ hội làm hại mình; (11) Thế Tôn sẽ coi các vị là đệ tử quý báu; (12) Các chúng sinh không thuộc giới người sẽ bảo vệ; (13) các Giác Thể sẽ ban cho uy tínquyền lực; (14) kẻ thù sẽ không tìm được cơ hội để hãm hại mình; (15) bạn hữu sẽ giữ lòng chung thủy; (16) lời nói được tin tưởng; (17) sẽ có được lòng không sợ hãi; (18) các ngươi sẽ có niềm vui tràn đầy; (19) các ngươi sẽ được các bậc cao minh tán thán; và (20) món quà pháp đó của thí chủ đáng được để người nhớ đến.

 

Hãy phát triển lòng tin vào các lợi ích của việc giảng pháp từ sâu thẳm của con tim như các lợi ích đó đã sẵn có trong các kinh tạng.

Với bốn lợi ích trên: “các ngươi sẽ đạt được an định” mà theo cách chuyển dịch mới của Tịch Thiên trong Tập Bồ-tát Học Luận (Úikṣâsamuccaya) là “các ngươi sẽ đạt được lòng tin” và trong kinh sách cổ hơn “Các ngươi sẽ có đầy tinh tấn”

 

2. Phát triển sự tôn kính Thầy (Đức Phật Thích-ca-mâu-ni)giáo pháp

Khi Đức Phật Như Lai thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-Mật-đa (Prajñâpâramitâ) Ngài đã tỏ ra hành động tôn kính bằng cách tự mình thiết lập tòa ngự.[20] [29] Tương tự như thế, bởi vì ngay cả các đức Phật cũng tôn kính giáo pháp, nên khi ngươi giảng giải các giáp pháp phải tỏ lòng kính trọng giáo pháp và Thầy [Đức Phật Thích-ca-mâu-ni], luôn tưởng nhớ đến phẩm chất cao quý và từ tâm của Ngài.

 

3. Giảng pháp với suy tưởng và cách ứng xử nào?

Về phần suy tưởng, phát huy năm điều tâm niệm đề cập trong Hải Huệ Vấn Kinh (Úâgaramati-paripṛcchâ-sûtra)hãy nghĩ mình chính là thầy thuốc, giáo pháp là thuốc men, người nghe giáo pháp là bệnh nhân, và Như Lai chính là đấng toàn hảo và ước mong giáo pháp tồn tại dài lâu.[21]

Vun đắp tình thương cho tất cả mọi người cùng vân tập nghe pháp. Bỏ đi lòng ích kỷ muốn hơn người; sự lười biếng ngần ngại; sự chán nản mệt mỏi do sự giải thích lặp đi lặp lại nhiều lần; tự ca tụng mình và nêu lỗi của người; hà tiện về việc giảng pháp; và quan tâm đến vật chất như thức ăn hay áo quần. Sau đó, hãy tâm niệm: “Phước báu từ giáo pháp là để cho con và người khác đạt được phật tánh chính là điều kiện ưu tiên về an lạc cho mình”

Về cách ứng xử, hãy tắm rửa sạch sẽ cơ thể mình. Rồi thay áo quần sạch, ngồi trên tòa giảng và tọa cụ ở nơi sạch và đẹp. Trong Hải Huệ Vấn Kinh có đề cập là nếu trì tụng chơn ngôn {Mật chú} để trừ ma quỷ,[22] thì quỷ và thần của loại quỷ trong vòng đường kính một trăm lý sẽ không đến được. Ngay cả khi đến được, họ cũng không thể tạo nên những khó khăn. Vì vậy, hãy trì tụng chơn ngôn đó. Và rồi thì, với khuôn mặt ngời sáng, giảng giải, dùng những thí dụ, lý luận, trích dẫn kinh điển và những phụ thuộc khác để xác minh ý nghĩa. Kinh Pháp Hoa có đề cập: [23]

 

Thiện tri thức luôn cho, không vị kỷ

Lời dạy dịu mềm với nhiều nghĩa ý.

Biếng nhác kia cũng hoàn toàn không có,

Nên sẽ chẳng chán hoài lời giảng lại

Thiện tri thức bỏ hết những ác cảm

Và luôn vun tưới thương yêu cho những người chung quanh

Ngày đêm nuôi dưỡng giáo pháp vô thượng

Dùng triệu triệu thí dụ, thiện tri thức

Mang niềm vui và hoan hỷ tới người nghe pháp

Không một gợn nhỏ nào tham vọng thế gian

Không nghĩ đến chất bổ dưỡng- thức ăn mềm, cứng hay nước uống

Chẳng y phục, giường chiếu hay y áo,

Hay là ngay cả thuốc men để trị bệnh

Người giảng pháp không đòi gì từ người đến nghe

Mà chỉ luôn tâm niệm: “Xin cho con

Và tất cả chúng sanh hữu tình đồng thành Phật đạo” và

“Những gì con chia sẻ về giáo pháp để giúp đỡ mọi người

điều kiện thuận lợi cho niềm an lạc của riêng con”

 

4. Phân biệt giữa người mà các vị nên giảng pháp hay không nên giảng

Đừng giảng pháp khi không có yêu cầu thỉnh giảng; như trong Kinh Giới Luật (Vynaya-sûtra) của Guṇabhadrâ {Đức Quang} có đề cập,[24] “Không nên giảng pháp khi không có yêu cầu”. Ngay cả khi được mời, cũng cần phải tìm hiểu người nghe có thích hợp khi nhận giáo pháp đó không. Và ngay cả khi không được yêu cầu, chỉ giảng giáo pháp nào đó khi biết rằng người nghe thích hợp.

 

Liên quan về vấn đề này, Định Vương Kinh có nêu:[25]

 

Khi có người yêu cầu

Xin học hỏi giáo pháp, trước tiên hãy nói:

“Tôi đã không được huấn luyện thâm sâu”

Rồi nói: ‘Bạn là người đầy kiến thứcthông thái

Làm sao tôi giảng pháp cho người cao siêu như bạn?”

Đừng giảng pháp do chỉ tình cờ

Mà chỉ sau khi xem xét người nghe có phải là thích hợp

Nếu biết rõ người nghe là khế hợp

Hãy giảng giải ngay dù chẳng có yêu cầu

 

Thêm vào đó, trong Giới Luật Kinh ngài Đức Quang có đề cập:[26]

 

Khi đứng, không giảng pháp cho người ngồi; khi ngồi, không giảng pháp cho người đang nằm; khi ngồi trên ghế thấp, không giảng pháp cho người ngồi trên ghế cao. Điều này tương tự như ghế tốt hay xấu. Đừng giảng pháp cho người đi trước trong khi mình bước sau. Đừng giảng pháp cho người đi trên đường trong khi mình đi ở bên lề. [31] Đừng giảng cho người che đầu lại hay người áo trên hay váy dưới xắn lên, người áo trên xếp lại và đặt lên vai , hay là người hai tay chéo với bàn tay đặt trên vai, hay hai bàn tay đan sau cổ. Đừng giảng pháp cho người có thắt nút trên đầu, đội mũ, mang vương miện, hay người có đầu quấn vải. Đừng giảng pháp cho người đang cưỡi voi hay ngựa, người ngồi trên ghe kiệu hay xe kéo, hay cho người đang mang giày hay mang bốt. Đừng giảng pháp cho người cầm cây gậy, cái dù, cái giáo, cây kiếm, hay những vũ khí khác, hay người mặc áo giáp.

 

Thích hợp để giảng pháp là những người không giống nhóm người kể trên. Thêm vào đó, những hướng dẫn này được áp dụng cho người không bị đau yếu.

 

C. Phương cách kết thúc một thời giảng trong liên hệ giữa lắng nghe và giảng giải giáo pháp.

Với tâm nguyện tha thiết hồi hướng những phước đức tạo được từ giảng giải và lắng nghe giáo pháp về mục tiêu tạm thời và tối hậu[27].

Nếu các vị giảng và nghe pháp theo cách thế đó, thì chắc chắn sẽ nhận được lợi ích như đã đề cập dù chỉ là một thời khóa. Các vị sẽ xóa tan đi được hết tất cả nghiệp chướng đã tích tạo vì không giữ trong tâm những gì đã nghe và giảng giải giáo pháp và đó là kết quả của việc không kính trọng giáo phápgiảng sư và v.v…Xa hơn nữa các vị sẽ ngừng các tích lũy mới của các trở ngại này. Cũng như vậy, khi các vị giữ trong tâm cách thức này để nghe và giảng giải giáo pháp, thì các giáo huấn đã được giải thích này sẽ lợi ích cho tâm thức của quý vị. Nói chung, sau khi tất cả các bậc cao minh nhận thức được điều này, các vị đã thực hành một cách tinh tấn; nói riêng, các guru {thiện xảo sư} đầu tiên trong các dòng truyền thừa của các giáo huấn này đã nỗ lực một cách nghiêm chỉnh và đầy tinh tấn.

Đây là một lời hướng dẫn cao quý. Các vị sẽ không chuyển hóa tâm được nếu không nắm chắc về điều này. Không có sự nắm chắc đó, cho dù các vị giảng giải sâu xa đến đâu về giáo pháp uyên thâm này, chính những giảng giải này thường chỉ phục vụ như là cộng hưởng với phiền não giống như là một vị giác thể hữu ích biến thành ma quỷ. Kết quả là, người ta nói: “Nếu các vị làm lỗi lầm từ ngày thứ nhất theo tháng âm lịch thì lỗi kia kéo dài đến tận ngày thứ mười lăm”. Thế nên, ai người thông minh hãy tu tập theo cách lắng nghe và giảng giải thành công này và phải có ít nhất một phần của các phẩm chất này mỗi khi hành trì. [32] Đây là điều kiện tiên quyết quan trọng nhất trong việc giảng giải những hướng dẫn này.

Sợ rằng mình nói quá dông dài, tôi đã làm cô đọng lại những điểm quan trọng. Hãy hiểu chúng sâu xa hơn qua việc sử dụng các nguồn giáo pháp khác. Tới đây là chấm dứt phần giải thích về những điều tiên quyết của lời hướng dẫn.

 


[1]BA71 Udâna-varga, Bernhard 1965 (Ud):22.6.22.3-5;P992:97.2.1-3 Thi kệ về Lắng nghe là đầu đề của Chương 22 của Tiểu Bộ Kinh.

[2]BA72 Jâtakamâlâ, Vaidya 1959a (Jm):31.31-34ab, 31.38cd; P5650:56.5-57.1.2, 57.1.5-6. Theo P. tác giả của Jâtakamâlâ là Âryaúûra {Thánh Dũng}

[3]Giáo huấn cá nhân còn được gọi là biệt huấn.

[4]BA73 Yogâ-caryâ-bhûmau-bodhisattva-bhûmi {Du-già Hạnh Địa Bồ-tát Địa Luận}, Duit 1966 (Bbh):165;P5538:190.1.6-190.2.2. The Bodhisattva-bhumi là phần 15 trongYoga-carya-bhumi (Cấp bậc của hành trạng Du-già) theo truyền thống Tây Tạng đây một tuyển tập lớn của Vô Trước.

[5]Định từ thiềnthuật ngữ được dùng để chỉ khả năng hay trạng thái định có được từ việc huân tập thiền, tương ứng với thuật ngữ thiền định. Tuy nhiên, vì nguyên bản Anh ngữ dùng thuật ngữ "meditatative serenity" với danh từ chính là serenity và tính từ bổ nghĩa của nó là meditative nhấn mạnh định lực có được từ thiền.

[6]BA74 Daúa-cakra-kṣitigarbha-nâma-mahâyânâ-sûtra, {Địa Tạng Thập Luân Đại Thừa Kinh} P905:96.3.6-7. Kṣitigarbha (Địa Tạng) là tên của một vị Bồ-tát.

[7]BA75 Bbh: 73, 165; P5538: 158.4.4-158.5.2-8. Phần bàn luận về năm đìều kiện không mang trong tâm sẽ được đề cập trong chương 16.

[8]BA76 Jm: 31.69-70; P5650:58.2.6-8.

[9]BA77 Lời khuyên nhủ về việc lắng nghe trước khi giảng giải có trong một số kinh điển như Ârya-suvikkrânta-vikrami-paripṛcchâ-prajñâpâramitâ-nirdeúa (Suvikkrânta Vấn Kinh), trong bộ kinh Mahâyâna-sûtra-saṃgraha (Đại Thừa Tạng Kinh) (Vaidya 1964: 3), kinh Sâgaramati-paripṛcchâ-sûtra (Hải Long Vương Vấn Kinh) (P819:91.2.8-91.3.1) và Daúa-cakra-kṣitigarbha-nâma-mahâyânâ-sûtra {Địa Tạng Thập Luân Đại Thừa Kinh} (P905:47.4.7-8,53.2.4)

[10]BA78 Bhb: 74; P5538: 158.5.1-2.

[11]BA79 Bodhisattva-caryâvatâra {Nhập Bồ-đề Hành Luận của Tịch thiên}, Bhattacharya 1960 (BCA): 2.54.

[12]BA80 Conze 1973:22.1; P735: 192.2.3-5.

[13]BA81 Deúanâ-stava, P2048:98.3.8-98.4.1.

[14]BA82 SR:9.43-46,4.24;P795:284.2.1-4,278.3.1.

[15]BA83 BCA: 5.109.

[16]BA84 Ud:22.7-10,22.18-19;P992:97.2.3-6,97.3.2-3.

[17]BA85 Kinh Ârya-adhyâúaya-saṃcodana-nâma-mahâyânâ-sûtra {Thâm Tâm Cảnh Tỉnh Đại Thừa Kinh} là chương 25 của kinh Ratnakûṭa (Bảo Tích Kinh) Tiếng Skt. được thấy trong Vaidya 1960b:63;p760:60.1.6-7; 60.1.8-60.2.1; 60.2.6-7.

[18]BA86 Jm: 31.68-70; P5650: 58.2.4-5.

[19]BA87 Vaidya 1960b: 187; P760.25:55.4.6-55.5.3.

[20]BA88 Conze 1990:38ff.

[21]BA89 Ârya-úâgaramati-paripṛcchâ-nâma-mahâyânâ-sûtra. {Hải Huệ Vấn Đại Thừa Kinh} P819:92.1.1-2. Tiếng Skt. được ghi trong Vaidya 1960b: 190. Các ý niệm về phương cách nghe pháp cũng tương tự như vậy, với một ngoại lệ: ý niệm về thực hành nghiêm túc xóa tan bệnh phiền não bị bỏ qua, bởi vì ý niệm này chỉ để riêng cho người tu tự suy nghiệm một mình.

[22]BA90 Chơn ngôn này có thể tìm trong Vaidya 1960b: 190; P819: 92.1.1.

[23]BA91 SP: 13.30, 13.32-35; Vaidya 1960a: 189; P781: 50.5.8-51.1.5.

[24]BA92 Vinaya-sûtra, P5619:222.3.7.

[25]BA93 SR:24.44-46. Đoạn văn trong trang 795: 308.4.8-308.5.2 là hoàn toàn khác với cách Ngài Tông-khách-ba trích dẫn. Cách trích dẫn của Ngài rất gần với cách viết trong chương 19 của Úiksâ-samuccaya {Tập Bồ-tát Học Luận}, Vaidya 1960b: 189; P5336: 270.3.6-8.

[26]BA94 Vinaya-sûtra, P5619:218.3.3-7.

[27]Theo đức Dalai Lama thì mục tiêu tối hậu này chính là sự việc hạt giống Phật được hoàn toàn phát triển trong ta (phương tiện chính là giới-định-tuệ) và mục tiêu tạm thời là giữ để tiếp tục tái sinh làm người để tu tập (phương tiện chính là bất bạo động và tâm vị tha). Shantideva's Guide to a Bodhisattva's Way of Life. Dalai Lama. MP3. Day 3. 2010. Truy cập: 07/06/2011.

 <http://www.dalailama.com/webcasts/post/94-shantidevas-guide-to-a-bodhisattvas-way-of-life>.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 37302)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(View: 7312)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(View: 12669)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(View: 31165)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(View: 31193)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 8616)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(View: 13303)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(View: 12878)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(View: 12332)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(View: 14628)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(View: 37361)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(View: 10594)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(View: 53461)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(View: 11538)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(View: 11165)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(View: 11506)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(View: 11305)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(View: 13864)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(View: 17186)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(View: 23152)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(View: 10125)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(View: 7675)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(View: 11032)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(View: 14105)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(View: 13624)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(View: 17100)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(View: 17378)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(View: 14575)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(View: 17892)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(View: 13051)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(View: 14755)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(View: 15012)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(View: 9849)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(View: 12360)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(View: 12133)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(View: 17373)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(View: 15066)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(View: 16914)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(View: 13296)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(View: 12857)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(View: 12467)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(View: 16457)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(View: 12290)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(View: 14819)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(View: 12764)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(View: 13590)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(View: 15951)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(View: 12523)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(View: 13943)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(View: 15233)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(View: 21959)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(View: 13921)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(View: 11563)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(View: 21581)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(View: 15114)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(View: 21718)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(View: 18727)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 14810)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(View: 32597)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(View: 12654)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM