Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Chương 7: Một Kiếp Người An lạcThuận duyên

12 Tháng Chín 201200:00(Xem: 18445)
15. Chương 7: Một Kiếp Người An lạc và Thuận duyên
Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 1
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Thượng)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎

Chương 7: Một Kiếp Người An lạc và Thuận duyên

 

B. Những giai đoạn người đệ tử điều phục tâm thức sau khi họ nương tựa vào đạo sư

1. Sự khuyến khích về việc tận dụng toàn vẹn đời sống an lạcthuận duyên

a. Sự nhận diện an lạcthuận duyên

1) An lạc

2) Thuận duyên

a) Năm khía cạnh của thuận duyên thuộc về bản thân quý vị

b) Năm khía cạnh thuận duyên liên quan đến những chúng sinh khác

b. Quán chiếu về tầm quan trọng to lớn của an lạcthuận duyên

c. Quán chiếu về sự khó khăn để đạt được an lạcthuận duyên

 

–––––––\–––––––

Bây giờ là lúc cần thiết để trình bày các giai đoạn mà qua đó vị đạo sư hướng dẫn đệ tử, những người nương tựa một cách đúng đắn vào vị thầy như trước đây đã giải thích.

 

B. Những giai đoạn người đệ tử điều phục tâm thức sau khi họ nương tựa vào đạo sư

Những giai đoạn người đệ tử điều phục tâm thức gồm hai phần:

  1. Khuyến khích về việc tận dụng toàn vẹn đời sống an lạcthuận duyên (Chương 7)
  2. Làm thế nào để tận dụng toàn vẹn đời sống an lạcthuận duyên (Chương 8 và tiếp theo)

 

1. Sự khuyến khích về việc tận dụng toàn vẹn đời sống an lạcthuận duyên

Việc tận dụng toàn vẹn đời sống an lạcthuận duyên được diễn giảng theo ba khía cạnh: nhận diện sự an lạcthuận duyên; quán chiếu về tầm quan trọng của nó; và quán chiếu về sự khó khăn để đạt được an lạcthuận duyên.

a. Nhận diện sự an lạcthuận duyên

1) An lạc

Trong tác phẩm Bát Thiên Bảo Đức Tập Kệ:[1]

 

Nhờ giới luật, ngươi loại trừ được

Tám điều kiện thiếu vắng an vui

Và nhiều hoàn cảnh trong kiếp sống tựa một súc sinh

Nhờ đó, ngươi luôn ở trong an lạc.

 

Theo điều này, an lạc nghĩa là sự giải thoát khỏi việc tái sinh vào bất kỳ một trong tám điều kiện thiếu sự an lạc. Tám điều kiện này được trình bày trong tác phẩm Bằng Hữu Thư:[2]

 

Tái sinh với tà kiến hay thiếu lời dạy của bậc Điều Ngự,

Hoặc làm một súc sinh, một ngạ quỷ, một chúng sinh địa ngục,

Một người không được giáo dục ở cõi biên địa

Một kẻ dốt và câm, hoặc một vị thiên thần[3] trường thọ [78]

Đều bị khổ sở bởi một trong tám khiếm khuyết là các điều kiện thiếu an lạc.

Khi đạt đến an lạc, được giải thoát khỏi những điều này,

Ngươi hãy nỗ lực chấm dứt sự tái sinh.

 

Với ba trong số tám điều kiện này, quý vị không thể biết được nên tiếp nhận điều gì và loại bỏ điều gì: sinh ra ở cõi biên địa trong đó bốn loại môn đệ [các vị tăng, ni, sa-di, sa-di-ni] không hoằng pháp; bị câm, dại, và các khả năng giác quan không hoàn chỉnh – nghĩa là các chi, tai, và v.v… không hoàn chỉnh; và thiếu giáo pháp của bậc Điều Ngự, nghĩa là sinh ra ở nơi không có một vị Phật đản sinh. Nếu quý vị mang tà kiến, nhận thức sai lạc về Tam Bảo, nghiệp và nghiệp báo và những kiếp sống quá khứvị lai như là những điều không tồn tại, thì quý vị sẽ không tin tưởng vào những giáo pháp tối thượng. Quý vị sẽ gặp trở ngại lớn trong việc phát triển thái độ tín ngưỡng nếu quý vị được sinh ra ở bất kỳ một trong ba cảnh giới khốn khổ, và thậm chí nếu quý vị phát triển được chút ít thì quý vị cũng không thể tu tập được bởi quý vị sẽ bị nỗi đau khổ hành hạ.

Tác phẩm Thân Hữu Thư Thích (Vyakta-padâ-suhṛl-lekha-ṭîkâ) của ngài Đại Huệ[4] {skt. Mahmati} diễn giải rằng một thiên thần trường thọchúng sinh vô phân biệt {vô tưởng}[5] và sống trong cõi vô sắc. Tác phẩm Bát Bất Lạc Luận {nghĩa là Luận về Tám Điều Kiện Thiếu An Lạc} (aṣṭâkṣaṇa-kathâ) của ngài Mã Minh[6] diễn giải rằng một thiên thần trường thọ là một chúng sinh sống trong dục giới, thường bị những hoạt động tham dục làm phân tâm. Tác phẩm Vi Diệu Pháp Báu Luận của ngài Thế Thân đề cập rằng các vị thiên vốn vô phân biệt hiện hữu ở một khu vực của Đại quả thiên - một cõi của tầng thiền thứ tư {tứ thiền}[7]. Cõi này bắt đầu từ phần còn lại của Đại quả thiên theo phương cách như một tự viện bắt đầu từ sự an trú thế tục.[8] Hơn thế nữa, chư thiên như thế này có các tâm thức và tiến trình tâm bất động, ngoại trừ thời điểm tức khắc theo sau sự sinh ra và xuyên suốt cái chết. Sau cùng, họ sống thọ trong rất nhiều đại kiếp lượng. Việc cho rằng một vị thánh giả hiện hữu trong cõi vô sắc sẽ ở trong điều kiện thiếu an lạc là không đúng. Vì vậy, quý vị bảo rằng những chúng sinh bình thường được sinh ra trong cõi vô sắc sẽ ở trong điều kiện thiếu an lạc vì họ không có cơ duyên thành tựu lộ trình của sự giải thoát. Tương tự như vậy đối với việc tái sinh làm một vị thiên trong dục giới, là người thường xuyên bị phân tán tư tưởng bởi những khoái lạc.[9]

Vì vậy, đối với những điều gọi là “những điều kiện thiếu an lạc”, tác phẩm Thân Hữu Thư Thích nói rằng:[10]

 

Ở trong tám trạng thái này, không có thời gian cho những việc làm đức hạnh; vì thế, chúng được gọi là “những điều kiện thiếu an lạc”.

 

2) Thuận duyên

a) Năm khía cạnh của thuận duyên thuộc về bản thân quý vị

Theo tác phẩm Thanh Văn Địa Luận, năm khía cạnh là:[11]

 

Được làm người, được sinh ra ở vùng trung tâm, có các giác quan hoàn chỉnh, mang nghiệp có thể chuyển hóa, và có niềm tin từ căn nguyên. [79]

 

“Được sinh ra ở vùng trung tâm” nghĩa là quý vị được sinh ra ở nơi có sự hiện hữu của bốn loại môn đệ. “Có các giác quan hoàn chỉnh” nghĩa là quý vị không bị ngu dốt hay câm, và quý vị có những chi chính, chi phụ, mắt, tai, và những bộ phận khác nguyên vẹn. “Mang nghiệp có thể chuyển hóa” nghĩa là quý vị không phạm hay khiến cho người khác phạm năm tội ngũ nghịch dẫn đến quả báo ngay lập tức.[12] “Niềm tin từ căn nguyên” nghĩa là quý vị có niềm tin vào giới luật, nguồn gốc sinh khởi mọi đức hạnh thế gianxuất thế gian. Ở đây, “giới luật” đề cập đến tất cả tam tạng kinh điển. Năm điều này gọi là “những khía cạnh của thuận duyên thuộc về bản thân quý vị” bởi vì chúng hiện diện trong dòng tâm thức của quý vị và là những điều kiện thuận lợi để thực hành giáo pháp.

 

b) Năm khía cạnh của cơ duyên liên quan đến những chúng sinh khác

Năm điều ấy là:[13]

 

Một vị Phật đã thị hiện, giáo pháp tối thượng đang được hoằng hóa,

Giáo pháp được duy trì, và có những người tu tập theo

Có sự quan tâm đến chúng sinh khác

 

Trong đó, “một vị Phật đã thị hiện”, (hoặc đang xuất hiện), nghĩa là một vị Bồ-tát đang tích lũy công đứctrí tuệ siêu phàm trong ba a-tăng-kỳ kiếp, và đạt đến trái tim của sự giác ngộ; nghĩa là, trở thành một vị Phật toàn hảo. “Giáo pháp tối thượng được hoằng hóa” nghĩa là một vị Phật hay những đệ tử của Ngài đang truyền đạt giáo pháp. “Giáo pháp được duy trì” nghĩa là không có sự thoái hóa giữa thời điểm một người trở thành một vị Phật và truyền đạt giáo pháp đến khi vị Phật này nhập Niết-bàn. Hơn nữa, câu kệ này đề cập đến giáo pháp ở thời điểm các tín đồ đạt đến giáo pháp nhờ việc hiểu biết những lời giáo huấn siêu phàm tối hậu. “Có những người tu tập theo” giáo pháp này nghĩa là có một số người hiểu rằng chúng sinh có khả năng lĩnh hội giáo pháp siêu việt. Họ hiểu biết điều này thông qua tri kiến đích thực về những giáo pháp siêu phàm, tối hậu như trên đã đề cập. Tiếp đến, những cá nhân này tuân theo giáo pháp đồng thời truyền dạy cho những người khác theo sự hiểu biết của họ. “Có sự quan tâm đến chúng sinh khác” nói đến những người bố thí và những ai thật sự làm những việc từ thiện bằng cách ban tặng các tăng y và các thứ tương tự. Bởi năm điều kiện này hiện hữu trong tâm thức của những chúng sinh khác và là những thuận duyên cho việc thực hành giáo pháp, chúng được gọi là “những khía cạnh của cơ duyên liên quan đến những chúng sinh khác”.

Bốn khía cạnh đầu tiên của cơ duyên liên quan đến những chúng sinh khác (như đã được trình bày ở đây từ tác phẩm Thanh Văn Địa)[14] là không đầy đủ đối với quý vị trong hiện tại. Tuy nhiên, thật là tiện để xem xét ở mức gần đúng của ba trong số bốn điều – gồm giáo pháp siêu việt được truyền dạy, giáo pháp được duy trì, và có những tín đồ tuân theo giáo pháp vốn được trì giữ – để bổ túc cho quý vị. [80]

 

b. Quán chiếu về tầm quan trọng to lớn của an lạcthuận duyên

Loài vật cố gắng cho đến lúc chết chỉ để tránh đau khổ và đạt niềm vui. Do đó, nếu quý vị làm như vậy và không tu tập các giáo pháp thanh tịnhmục tiêu đạt được hạnh phúc lâu dài, thì quý vị chỉ tựa một con vật dù được sinh ra ở cảnh giới hạnh phúc. Như trong tác phẩm Đệ Tử Thư (Śiṣya-lekha) của ngài Nguyệt Quan:[15]

 

Như bước chân voi đang thèm ăn ngốn ngấu

Những cọng cỏ ở bờ rìa của hố sâu

Và rơi xuống vực không thâu nhận được gì,

Tương tự vậy cho ai thèm khát các niềm vui thế tục

 

Không phải kiếp sống bất kỳ nào cũng sẽ đáp ứng đủ cho việc tu tập những giáo pháp thanh tịnh như vậy nói chung hoặc tu tập con đường Đại thừa nói riêng. Vì vậy, quý vị phải đạt được đời sống ấy như được mô tả từ trước. Trong tác phẩm Đệ Tử Thư:[16]

 

Với kiếp người, ngươi thành tựu tâm giác ngộ

Là bước cơ bản cho lộ trình đến thành tựu Phật-đà

Mang lại tâm lực mạnh mẽ, giúp ngươi dẫn dắt tất cả chúng sinh.

Rồng, a-tu-la, Minh Trì, Ca-lâu-la, phi nhân,[17] hay rắn đều không thể đạt đến lộ trình này.

 

Tương tự, tác phẩm Nhập Thai Kinh nói rằng:[18]

 

Cho dù các ngươi được sinh ra làm người với vô vàn đau khổ như thế, thì các ngươi vẫn có được những hoàn cảnh tốt nhất. Khó mà đạt được điều này thậm chí trong mười triệu kiếp lượng nữa. Ngay cả khi các vị thiên chết, những vị thiên khác nói rằng: “Cầu chúc ngươi một sự tái sinh hạnh phúc”. Sự tái sinh hạnh phúc ở đây hàm ý là tái sinh làm người.

 

Vì vậy, ngay cả chư thiên cũng xem kiếp người là điều họ ước mong.

Một kiếp sống làm một loại thiên thần trong cõi dục – là kẻ có những khuynh hướng tiềm tàng mạnh do đã được tu tập trong lộ trình trước đây khi làm một con người – có thể hỗ trợ như một điều căn bản để bước đầu nhìn thấy chân lý. Tuy nhiên, quý vị không thể có bước đầu đạt đến lộ trình của một thánh giả trong suốt kiếp sống ở những cảnh giới [thiên giới] cao hơn[19]. Hơn thế nữa, hầu hết những thiên thần trong cõi dục được cho là ở điều kiện thiếu an lạc, như trước đây đã giải thích. Vì vậy, một kiếp người là điều căn bản tối cao để bước đầu thành tựu được lộ trình tu tập. Hơn nữa, bởi vì kiếp người ở Bắc-câu-lư Châu không phải là điều căn bản thuận lợi cho những giới nguyện, nên kiếp người ở ba châu còn lại được tán thán. Ngoài ra, trong số những châu này thì kiếp người ở cõi Diêm–phù-đề được tán thán.

Do vậy, hãy liên tục quán tưởng với những suy nghĩ như thế này:

 

Vì sao tôi lại lãng phí sự thành tựu này trong một kiếp sống tốt đẹp như vậy? Khi tôi hành động như thể điều đó không quan trọng, tôi đang tự lừa dối bản thân. [81] Liệu còn gì có thể dại dột hơn điều này? Chỉ có điều này thôi, một khi tôi đã được giải thoát khỏi việc phải liên tục di chuyển khó khăn trên những con đường đầy những vách đứng cheo leo ở những điều kiện bất an, như những cảnh giới khốn khổ. Nếu tôi lãng phí sự tự do này và trở lại với những điều kiện ấy, thì việc đó tương tự như đánh mất tâm trí của mình, như một người bị mê mẩn bởi mùi hương đầy ma lực.

 

Như ngài Thánh Dũng {skt. Âryaúûra} nói:[20]

 

Kiếp người gieo hạt giống

Để ra khỏi luân hồi,

Hạt giống vô thượng của giác ngộ huy hoàng.

Kiếp người là dòng chảy các đức hạnh

Hơn cả bảo vật có thể cho mọi điều ước muốn.

Ai ở đây đạt được rồi lại lãng phí nó đi?

 

tương tự, trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[21]

 

Không có điều chi dối gạt hơn

Và không có gì mê muội hơn

Việc tôi đi tìm ra an lạc

Mà lại chẳng nuôi dưỡng công đức.

 

Sau khi tôi thấy điều này,

Nếu vẫn giải đãi qua mê muội,

Đau khổ cùng cực sẽ xảy đến

Vào lúc tử thần đến viếng tôi.

 

Khi thân tôi bị nướng thật lâu

Trong lửa địa ngục không chịu nổi,

Lửa hối hận bùng lên mãnh liệt

Chắc chắn sẽ tàn phá tâm tôi.

 

Đây, cơ hội hiếm và hữu ích

Do may mắn nào tôi tìm ra.

Nếu giờ bất chấp tâm phân biệt

Tôi lại rơi vào địa ngục sâu,

 

Rồi như người hoang mang trước lời ma thuật,

Tôi dễ dàng đánh mất thông tuệ của mình.

Điều gì trong tôi khiến gây nên mê muội?

Cả đến việc này cũng chẳng hề hiểu nổi.

 

Hơn nữa, Geshe Drom-dön-ba đã hỏi Jen-nga: “Ngươi có lưu tâm đến việc mình được phú cho một kiếp người cùng với sự an lạc và thuận duyên?” Jen-nga đáp rằng: “Mỗi khi nhập thiền, con đều tụng rằng:

Giờ tôi đang có tự tạithuận duyên.

Nếu tôi không tận dụng tốt thời điểm này,

Tôi sẽ lao xuống vực thẳm và rơi vào vòng kiểm soát của kẻ khác.

Sau đó rồi ai sẽ nâng tôi ra khỏi được đây?” [82]

 

Vì vậy, mỗi lần thiền quán, Jen-nga đều tụng đọc bài kệ này trước tiên, được trích từ tác phẩm Nhập Trung Quán Luận của Nguyệt Xứng.[22] Quý vị cũng nên thực hiện như thế.

Hãy quán chiếu về tầm quan trọng to lớn của an lạcthuận duyên đối với những mục tiêu rốt ráo của quý vị theo phương thức này. Và cũng quán chiếu về tầm quan trọng của chúng đối với những mục tiêu tạm thời của quý vị. Nghĩa là, xem xét bằng cách nào quý vị có thể dễ dàng đạt được những phẩm hạnh tốt của cuộc sống này như bố thí, trì giớinhẫn nhục, chúng là những nguyên nhân của thịnh vượng, là người trì pháp toàn hảo, và là phần chính yếu của một chúng sinhtrạng thái cao [tái sinh làm người hoặc trời]. Hãy tư duy như sau:

 

Theo cách này, cuộc đời này thật quan trọng đối với việc thành tựu trạng thái cao và những phẩm hạnh vững chắc [của sự giải thoáttoàn trí]. Nếu tôi lãng phí nó và không nỗ lực tinh tấn ngày đêm để gieo nhân cho hai mục tiêu này, thì điều đó như thể tôi từ một vùng đất đầy châu báu quay về với tay không. Hơn nữa, tôi sẽ đánh mất hạnh phúc trong tương lai và sẽ không đạt được một đời sống an lạc. Không có sự an lạc, tôi sẽ phải chịu đựng nỗi đau khổ triền miên. Vì vậy, còn có sự tự lừa dối mình nào tệ hơn không?

 

 Như ngài Thánh Dũng nói:[23]

 

Những ai có thân người giàu trong đức hạnh

Qua tích lũy công đức từ vô lượng kiếp thành,

Và chính họ, nay vô minh mê lạc,

Không tìm được dù công đức rất nhỏ nhoi

 

Rồi mai đây trong những kiếp vị lai

Phải vào nhà khổ đau không chịu nổi.

Như thương gia từ nơi đầy châu ngọc

Bỗng trở về nhà cũ với tay không,

 

Nếu không đi trên đường thập thiện nghiệp

Ngươi sẽ chẳng trở lại kiếp nhân sinh.

Không làm người, sao có được hạnh phúc?

Thiếu phúc hạnh, chỉ gánh khổ đau thôi.

 

Không có sự tự dối mình nào cao hơn.

Chẳng còn mê muội nào lớn hơn điều đó.

 

Sau khi tư duy như vậy, hãy phát triển lòng ước mong mãnh liệt để tận dụng trọn vẹn kiếp sống an lạcthuận duyên này. Trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[24]

 

Thân tôi giờ đã được trả lương

Tôi khai thác nó thường làm điều ý nghĩa

Nếu thân kia không giúp được chi

Tôi cũng chẳng cung phụng gì cho nó.

 

Tương tự:

 

Nương tựa vào thuyền nhỏ của thân ta

Hãy tự thoát khỏi đại hà đầy khổ ải.

Vì thật khó đạt lại con thuyền này,

Đừng mê ngủ giờ đây, kẻ ngốc ạ!

 

Hơn nữa, Bo-do-wa đề cập trong tác phẩm của ngài Các Kho Tàng Bảo Pháp Qua Phương Tiện Tương Tự:

 

Sự tôn kính của côn trùng, kẻ thiếu chân cưỡi một con lừa hoang, con cá của người Tsang (rTsang), và những trái banh bằng bơ làm từ bột lúa mạch nướng.[25]

 

Bằng cách tư duy về những dòng này, hãy phát triển sự ước mong tận dụng trọn vẹn một kiếp người an lạcthuận duyên. [83]

 

c. Quán chiếu về sự khó khăn để đạt được an lạcthuận duyên

Vả lại, dù quý vị bắt đầu từ một cảnh giới hạnh phúc hay khốn khổ, thì việc đạt được an lạcthuận duyên như thế thật khó khăn. Bởi vì, đức Phật đề cập trong tác phẩm Giới Pháp[26] {Các cơ sở giới luật} rằng những ai chết trong những cảnh giới đau khổtái sinh tại đó đều tương tự nhau về số lượng các hạt bụi trong địa cầu bao la, trong khi những ai tái sinh từ đó vào những cảnh giới hạnh phúc thì tương tự nhau về số lượng các hạt bụi trên từng đỉnh đầu móng tay. Hơn nữa, những ai chết đi trong cả hai loại cảnh giới hạnh phúc [người và trời] và bị tái sinh vào những cảnh giới đau khổ thì tương tự nhau về số lượng hạt bụi trong địa cầu bao la, trong khi những ai chết đi trong những cảnh giới hạnh phúc và được tái sinh tại đó thì tương tự nhau về số lượng hạt bụi trên từng đầu ngón tay.

Vấn: Vì sao một kiếp người an lạcthuận duyên lại khó đạt như thế?

Đáp: Điều đó là do những chúng sinh trong những cảnh giới hạnh phúc – những con ngườitương tự - thường nhúng tay vào những hành động hèn mọn như mười điều bất thiện. Bởi vậy nên họ bị tái sinh vào những cảnh giới đau khổ. Như tác phẩm Tứ Bách Kệ Tụng của ngài Thánh Thiên:[27]

 

Bộ phận lớn con người ta

Tham gia các việc hèn mọn.

Nên hầu hết những phàm phu

Chắn chắn đi vào cõi khổ.

 

Ví dụ như, dù chỉ một khoảnh khắc nổi lòng sân hận với một vị Bồ-tát thì quý vị phải đọa trong Vô Gián Địa Ngục một kiếp lượng. Bởi như vậy, tất nhiên là quý vị sẽ phải đọa vào những cảnh giới đau khổ trong nhiều kiếp lượng nếu trong dòng tâm thức của quý vị ghi khắc tập khí {dấu vết} nhiều tội lỗi đã chất chồng qua nhiều kiếp sống. Những tập khí này chưa được tẩy xóa bởi một liều thuốc giải độc nào và cũng chưa phát sinh các hậu quả. Dù vậy, nếu quý vị làm tan biến hoàn toàn những nguyên nhân gây tái sinh đau khổ đã tích tụ trước đây và ngăn chặn bản thân không tái tạo những nguyên nhân này, thì đảm bảo quý vị được tái sinh hạnh phúc. Tuy nhiên, làm được điều này là cực kỳ hiếm hoi. Nếu quý vị không hành động theo cách này, quý vị sẽ tái sinh vào một cảnh giới đau khổ. Một khi ở đó, quý vị sẽ không nuôi dưỡng được công đức, mà quý vị sẽ liên tục phạm những tội lỗi. Thậm chí quý vị sẽ không nghe được cụm từ “những cảnh giới hạnh phúc” trong nhiều kiếp lượng! Vì vậy, một kiếp người an lạcthuận duyên rất khó đạt được. Trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[28]

 

Với ứng xử của mình như vậy

Tôi sẽ không có lại thân người.

Nếu tôi không thành đạt điều ấy,

Tôi sẽ phạm tội và chẳng bao giờ nên đức hạnh. [84]

 

Nếu không nuôi thiện đức

Khi có dịp thi hành,

Làm sao tôi dưỡng được

Những công đức nào đây

Trong cảnh giới khốn cùng

Đầy mê muội khổ đau?

 

Nếu không nuôi công đức

Lại tích tội sâu dày

Thì sao tôi nghe được

Dù đấy chỉ là tên

“Những cảnh giới phúc hạnh”

Trong vô lượng thời gian.

 

Đức Thế Tôn đã dạy

Kiếp người này khó thấy

Như rùa biển trồi lên

Đặt cổ ngay vào ách

Vốn trôi nổi bồng bềnh

Trong đại dương mênh mông

 

Dầu chỉ trong khoảnh khắc

Một hành vi sai lầm

Khiến lâm Ngục Vô Gián

Một kiếp lượng dài lâu

Ngươi đâu đạt cõi phúc

Bởi tội chất từ đầu

 

Vấn: Khi tôi trải nghiệm sự đau khổ trong những cảnh giới khốn cùng, tôi sẽ dẹp tan được những nghiệp xấu trước đây, và sau đó tôi sẽ được tái sinh vào một cảnh giới hạnh phúc. Do vậy, việc thoát khỏi những cảnh giới đau khổ không quá khó khăn.

Đáp: Trong khi quý vị trải nghiệm sự đau khổ ở những cảnh giới khốn cùng, quý vị sẽ thường hằng tích lũy tội lỗi. Do đó, dù quý vị có thể chết trong một cảnh giới đau khổ, thì quý vị sẽ tiếp tục tái sinh vào những cảnh giới đau khổ. Vì lẽ này, việc thoát khỏi những cảnh giới đau khổ thật khó khăn. Trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[29]

 

Chỉ trải nghiệm nghiệp quả

Ngươi sẽ không thoát ra

Vì lúc nếm hậu quả

Ngươi tạo ra tội khác

 

Sau khi quý vị quán chiếu về sự khó khăn để đạt được một kiếp người an lạcthuận duyên theo cách này, hãy phát triển lòng khát khao để tận dụng trọn vẹn một cuộc đời như vậy. Hãy tư duy rằng: “Nếu tôi dùng cuộc đời này làm những việc sai trái thì điều đó thật lãng phí. Bởi vậy, tôi sẽ dành thời gian của mình để tu tập giáo pháp tối thượng”.

Trong tác phẩm Bằng Hữu Thư của ngài Long Thọ:[30]

 

Bởi việc đạt kiếp người từ một kiếp súc sinh còn khó khăn hơn

Đầu chú rùa biển đưa vào lỗ hổng

Của cái ách trôi nổi trên đại dương bao la,

Này Đại Vương, vua của loài người, hãy khiến cho đời này đầy thành quả

Qua cách tu tập giáo pháp tối thượng.

Ai được sinh làm người

Rồi làm điều sai trái

Thì thậm chí dại hơn

Kẻ nôn vào bình vàng đầy châu báu.

 

tác phẩm Đệ Tử Thư của ngài Nguyệt Quan nói rằng:[31]

 

Sau khi ngươi đạt kiếp người, là việc khó có,

Hãy quyết tâm thành tựu điều ngươi truy tầm [85]

 

Hơn nữa, vị đại thiền giả[32] đã nói với Jen-nga: “Hãy thực hiện điều đó mỗi lần một ít”. Jen-nga thưa rằng: “Tôi hiểu điều này, nhưng sự an lạcthuận duyên này thật khó đạt”. Bo-do-wa nói rằng:

 

Tại vùng Pen-bo (Tan [po]) có một thành lũy lớn tên là May-cha-kar (rMa'i-phyva-mkhar). Thành này bị một kẻ địch chiếm đóng, và đã lâu người ta chưa thể giành lại nó. Vì vậy, có một ông lão đã bị dằn vặt bởi sự mất mát thành lũy này. Một lần ông đã nghe ai đó la lên rằng: “Thành lũy được lấy lại rồi”, thế là ông chộp lấy một chiếc giáo; do không đi được, ông tự kéo lê thân mình đi nhờ sự trợ giúp của chiếc giáo; ông kêu lên: “Thật tuyệt biết bao nếu việc giành lại thành lũy May-cha-kar không phải là một giấc mơ!” Tương tự vậy, ngươi phải tìm thấy niềm hân hoan như thế trong việc đạt được an lạcthuận duyên, và ngươi phải tu tập các giáo pháp.

 

Hãy thiền quán cho đến khi quý vị đạt được thái độ như đã nêu trong những câu chuyện này.

Để phát triển được nỗi khát khao đủ phẩm tính một cách hoàn toàn nhằm tận dụng toàn bộ một cuộc đời an lạc, quý vị phải quán chiếu bốn yếu tố của nó như sau:

 

1) nhu cầu tu tập các giáo pháp, bởi tất cả chúng sinh chỉ mong muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ cũng như là bởi việc đạt được hạnh phúc và giảm trừ đau khổ chỉ phụ thuộc vào sự tu tập các giáo pháp;

2) khả năng tu tập, bởi quý vị được phú cho điều kiện bên ngoài, là một vị đạo sư, và những điều kiện nội tại, là sự an lạcthuận duyên;

3) nhu cầu tu tập trong kiếp sống này, bởi nếu quý vị không tu tập, thì sẽ rất khó đạt lại sự an lạcthuận duyên trong nhiều đời sau; và

4) nhu cầu tu tập ngay bây giờ, vì chẳng có gì chắc chắn về việc khi nào quý vị sẽ chết.

 

Trong số này, yếu tố thứ ba ngăn chặn sự giải đãi của việc muốn từ bỏ bởi ý nghĩ: “Tôi sẽ tu tập giáo pháp trong những kiếp vị lai”. Yếu tố thứ tư ngăn chặn sự giải đãi của việc rút lui bởi ý nghĩ: “Dù rằng tôi nên tu tập trong kiếp sống này, thì cứ để sau đó hãy tu tập cũng đủ rồi và không sớm tu tập trong những năm, những tháng, những ngày bắt đầu của tôi”. Vì vậy, có thể chấp nhận việc tạo ra một danh sách ba phẩm chất bằng cách gộp chung hai yếu tố này thành một, đó là “nhanh chóng tu tập”. Trong trường hợp này, chánh niệm về cái chết thực sự có liên quan ở đây, nhưng tôi sẽ diễn giải điều đó sau; nếu không việc này sẽ trở nên quá dài dòng.

Nếu quý vị quán chiếu về kiếp người an lạcthuận duyên này từ nhiều góc nhìn, tâm thức của quý vị sẽ được tác động một cách mạnh mẽ. Vì vậy, hãy quán chiếu như đã hướng dẫn bên trên. [86] Nếu quý vị không thể thực hiện điều này, hãy cô đọng tài liệu này thành ba chủ đề: bản chất của an lạcthuận duyên là gì, tầm quan trọng thế nào đối với các mục tiêu rốt ráo và tạm thời của quý vị, và sự khó khăn như thế nào để đạt được về mặt những nguyên nhânhậu quả của nó. Sau đó lấy bất cứ lời giải thích nào bên trên phù hợp với tâm thức quý vị, và thiền quán về nó.

Đối với sự khó khăn để đạt được kiếp người an lạcthuận duyên về mặt những nguyên nhân, hãy xem xét điều sau. Một cách tổng quan, ngay cả để có được một sự tái sinh hạnh phúc, quý vị phải nuôi dưỡng từng đức hạnh thanh tịnh, như giới luật. Một cách cụ thể, việc đạt được an lạcthuận duyên toàn vẹn đòi hỏi nhiều cội nguồn công đức, ví dụ như có một nền tảng giới luật thanh tịnh, tăng cường nó bằng bố thí và các Ba-la-mật-đa khác, và khi chết tạo sự liên kết với kiếp sống tiếp theo của quý vị thông qua những lời cầu nguyện tinh khiết đầy ước vọng mạnh mẽ. Bởi vậy, hiển nhiên là có một số rất ít người thành tựu được những nguyên nhân như thế. Do đó, một khi quý vị đã hiểu biết điều này, hãy quán chiếu về sự khó khăn để đạt kết quả chung, tức là một cuộc sống trong một cảnh giới hạnh phúc, và kết quả cụ thể, tức là một đời người với sự an lạcthuận duyên.

Sự khó khăn để đạt được kiếp người an lạcthuận duyên về mặt những kết quả được diễn giải như sau. So với số lượng chúng sinh trong những cảnh giới đau khổ - những chúng sinh không giống như chúng ta – thì ngay cả một sự tái sinh đơn thuần vào một cảnh giới hạnh phúc hầu như không hiện hữu. Thậm chí so với số lượng chúng sinh trong những cảnh giới hạnh phúc – những chúng sinh giống như chúng ta – thì một cuộc đời đặc biệt an lạc rất hiếm hoi. Hãy thiền quán về điều này.

Geshe Döl-wa vô cùng trân quý lời giáo huấn này về sự khó khăn để đạt được an lạcthuận duyên. Vì thế, Ngài đã nói rằng sự tu tập tất cả những giáo pháp khác đều dựa theo giáo pháp này. Bởi vậy, hãy nỗ lực cho nó.



[1]BA187 Ratna-guṇa-sañcaya-gâthâ, Conze 1973:32.2; P735:192.2.5.

[2]BA188 Suhṛl-lekha 63-64; P5682: 236.5.2-4.

[3]Các thuật ngữ thiên, thần, thánh hay trời ở đây được dùng để chỉ các chúng sinh thuộc các cõi cao hơn cõi người tức là các cõi trời.

[4]BA189 Vyakta-padâ-suhṛl-lekha-ṭîkâ, P5690: 264.3.5.

[5]Vô phân biệt (tib. འདུ་ཤེས་མེད་པའི་སེམས་ཅན) hay vô tưởng cấp thứ tư trong Tứ Thiền

[6]BA190 Aṣṭâkṣaṇa-kathâ , P5423:103,234.4.8-234.5.2.

[7]Một cách phân chia các cõi thiên (hay cõi trời) từ dục giới cho đến vô sắc giới là như sau:

 a. Sáu cõi thiên thuộc dục giới gồm: (1) Tứ thiên vương (skt. câturmahârâjika); (2) Đao lợi hay Tam thập tam thiên (skt. trayastriṃśa); (3) Dạ-ma thiên (skt. yâmadeva) hoặc Tu-dạ-ma thiên (skt. suyâma); (4) Đâu-suất thiên (skt. tuṣita); (5) Hóa lạc thiên (skt. nirmâṇarati); (6) Tha hóa tự tại thiên (skt. paranirmitavaśavarti);

 b. Các cõi thiền của sắc giới (kskt. rûpaloka) có từ sơ thiền đến tứ thiền bao gồm:

 b.1. Sơ thiền có 3 cõi: (1) Phạm thân thiên (skt. brahmakâyika); (2) Phạm phụ thiên (skt. brahmapurohita); (3) Đại phạm thiên (skt. mahâbrahmâ)

 b.2. Nhị thiền có 3 cõi: Thiểu quang thiên (skt. parîttâbha); Vô lượng quang thiên (skt. apramâṇâbha); Cực quang tịnh thiên (skt. abhâsvara)

 b.3. Tam thiền có 3 cõi: Thiểu tịnh thiên (skt. parîttaúubha); Vô lượng tịnh thiên (skt. apramâṇaúubha); Biến tịnh thiên (skt. śubhakṛtsna)

 b.4. Tứ thiền có 10 cõi: (1) Vô vân thiên (skt. anabhraka); (2) Phúc sinh thiên (skt. puṇyaprasava); (3) Quảng quả thiên hay Đại quả thiên (skt. bṛhatphala); (4) Vô tưởng thiên (skt. asâṃjñika); (5) Vô phiền thiên (skt. avṛha); (6) Vô nhiệt thiên (skt. atapa); (7) Thiện kiến thiên (skt. sudarśana); (8) Sắc cứu kính thiên (skt. akaniṣṭha); (9) Hòa âm thiên (skt. aghaniṣṭha); (10) Đại tự tại thiên (skt. mahâmaheúvara)

 c. Các cõi thiền vô sắc (skt. arûpaloka) gồm: Không vô biên xứ (skt. âkâúanantyâyatana); Thức vô biên xứ (skt. vijñânanantyâyatana); Vô sở hữu xứ (skt. âkiṃcanyâyatana); Phi tưởng phi phi tưởng xứ (skt. naivasaṃjñâ-nâsaṃjñâyatana)

 Tam giới. Wikipedia.org. Truy cập: 1/2/2012.

 <http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_gi%E1%BB%9Bi>

[8]BA191 Đại quả hay Quảng quả thiên (Skt. Vṛtaphala) là một trong tám cõi ở tầng thiền thứ tư. Một số vị thiên ở vùng này không có sự an lạc bởi họ đang trong trạng thái thiền vô phân biệt định {hay vô tưởng định} (asaṃjñisamâpatti, 'du shes med pa'i snyoms 'jug), gần giống với giấc ngủ sâu không chiêm bao của chúng ta. Khi họ được sinh ra, họ biết họ được sinh, và khi họ sắp chết, họ biết rằng họ sắp chết.

[9]BA192 Ba-so-chos-kyi-rgyal-mtshan (mChan: 158.2-3) luận giải rằng ngài Tsongkhapa đang chỉ rõ là chỉ có những thiên thần trong cõi dục và vô sắc là những người bình thường và không phải là Thánh giả mới không có sự an lạc.

[10]BA193 Vyakta-padâ-suhṛl-lekha-ṭîkâ, P5690: 264.3.5.

[11]BA194 Śbh, P5537:37.5.2-38.1.5.

[12]BA195 Năm hành động dẫn đến quả báo ngay lập tức là những việc cực ác như giết cha, giết mẹ, giết một vị A-la-hán, cố tình làm một vị Phật chảy máu, và gây ra sự ly tán trong Tăng đoàn.

[13]BA196 Śbh, P5537:38.1.5-38.2.1.

[14]BA197 Ibid.

[15]BA198 Śiṣya-lekha: 76 (Minareff: 1890); P5683: 240.2.8-240.3.1.

[16]BA199 Ibid., P5683: 240.1.1-2.

[17]BA200 Nâgas (rồng/ rắn) là những sinh vật giống như loài rồng, vidyadharas (Minh Trì) là những phụ nữ quyến rũ, garudas (Ca-lâu-la) là những sinh vật giống loài chim chuyên ăn thịt rắn, và kinnaras (phi nhân) (theo nghĩa đen “Có phải họ là người không?”) là những á thần của vùng Himalaya.

[18]BA201 Ârya-nanda-garbhâvakrânti-nirdeúa-[nâma-mahâyânâ-sûtra], P760:110.5.5-6. Đây là phân đoạn 14 của Bảo Hằng Kinh {skt. Ratna-kûṭa}, được dịch từ tiếng Trung Hoa. Có một phiên bản khác, the Aryayusman-nanda-garbhavakranti-nirdesa-[nama-mahayana-]sutra {Hoan Hỷ Nhập Thai Thích [Đại thừa] Kinh} nằm ở phân đoạn 13.

[19]B202 Nghĩa là, quý vị không thể đạt đến mức Kiến đạotrở thành Thánh giả khi là một thần tiên ở cõi sắc hoặc vô sắc.

[20]BA203 Trong tác phẩm Thiện Ngôn Bảo Trang Truyện, {Subhâṣita-ratna-kâraṇḍaka-kathâ} bài kệ 15; P5424: 235.4.2-3 và P5668: 208.2.3-4.

[21]BA204 BCA: 4.23-27; P5272: 248.1.3-7.

[22]BA205 Madhyamakâvatâra-nâma: 2.5; P5262:100.4.7-8.

[23]BA206 Subhâṣita-ratna-kâraṇḍaka-kathâ: 16-18b; P5424: 235.4.3-5.

[24]BA207 BCA: 5.69, 8.14; P5272:249.5.1-2,253.3.6.

[25]BA208 Hai sự tương đồng đầu tiên biểu trưng cho khó khăn để đạt được an lạcthuận duyên. Hiếm khi nào một côn trùng biết tôn kính, cũng như khi một người tàn tật ở chân cưỡi được con lừa hoang. Kensur Yeshay Tupden nói rằng có một câu chuyện kể về con sâu bò ra khỏi mặt đất và cong mình xuống trước đức Phật. Cũng vậy, thật khó khăn cho chúng ta để có thể thoát khỏi những cảnh giới đau khổ và được tái sinh làm người với sự an lạcthuận duyên. Trong câu chuyện về con lừa hoang, một người tàn tật ca xướng một bài hát sau khi anh ta tình cờ ngã trên lưng một chú lừa. Khi được hỏi rằng vì sao anh hát, anh ta đáp rằng, “Tôi ngạc nhiên khi được cưỡi trên lưng một chú lừa hoang đến nỗi nếu không hát lúc đó thì khi nào tôi mới nên hát đây?”

 Hai ví dụ cuối mô tả tầm quan trọng to lớn của an lạcthuận duyên. Một thợ xây từ vùng Tsang đi thăm một gia đình, và họ đãi anh ăn cá lần đầu tiên trong đời anh. Hương vị ngon đến nỗi anh ta tham ăn thật nhiều, và khi sắp bị nôn, anh ta thắt chiếc khăn quàng quanh cổ anh ta. Khi được hỏi vì sao anh làm thế, anh ta đáp rằng, “Cá ngon đến mức nếu tôi nôn ra sẽ là một sự mất mát lớn!” Ví dụ cuối cùng nói đến câu chuyện về một chàng trai trẻ và nghèo, anh ta đến dự một bữa tiệc và dùng thật nhiều thức ăn, tự cố ép mình ăn vượt quá sự ngon miệng. Khi người bạn hỏi anh đang làm gì, anh ta đáp rằng, “Đây có thể là dịp duy nhất tôi được ăn những món ngon tuyệt như vậy. Tôi phải ăn chúng liền!”

 Một lời diễn giải hơi khác về ba ví dụ đầu tiên được tìm thấy trong tác phẩm Các Kho Tàng Bảo Pháp Qua Phương Tiện Tương Tự [dPe chos rin chcn spungs pa'i 'bum 'grel] (62.2-6) của lCe-sgom-pa; ví dụ cuối cùng (65.1) được đưa ra là byis pa'i nas zan thay vì sme'u zan trong Lamrim Chenmo. Có một câu chuyện khác được trình bày để mô tả ví dụ cuối cùng này.

 Tác phẩm Các Kho Tàng Bảo Pháp Qua Phương Tiện Tương Tự, Ganden Bar Nying, và LRCM đánh vần từ Tsang là rtsang thay vì gtsang.

[26]BA209 Vinaya-vastu, {Giới Pháp} P1030:37.1.5-37.5.5. Ngài Tsongkhapa nói đến bài kinh Lunggzhi (Agama-vastu), Các cơ sở của Truyền Thừa. Đây là phần đầu tiên trong giới luật.

[27]BA211 Cś, P5246:135.4.8-135.5.1.

[28]BA212 BCA: 4.17-21; P5272: 247.5.7-248.1.3.

[29]BA212 Ibid.: 4.22; P5272: 248.1.3.

[30]BA213Suhṛl-lekha: 59-60; P5682: 236.4.7-8.

[31]BA214 Śiṣya-lekha: 64a; P5683: 240.1.2-3.

[32]BA215 A-kya-yongs-'dzin (A-kya: 119.2) nói rằng cụm từ này ý chỉ ngài dGe-bshes 'Brom-ston-pa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12502)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11649)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12053)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13011)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11446)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12381)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53064)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35492)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21400)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19241)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26048)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14384)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16091)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16849)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17587)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13132)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12536)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11612)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19578)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18657)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12319)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15038)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15525)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17198)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20199)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14617)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13844)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11711)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22883)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14559)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11652)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16886)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18349)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11945)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11504)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15854)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18425)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant