Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông

26 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 27926)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư

kinhthulangnghiemtongthong

MỤC LỤC

Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Tông Thông.

Lời Nói Đầu.

Tiểu Sử Ngài Thubten Osall Lama.

Phần Thứ I: Phần Tựa.

· Duyên Khởi Của Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông.

· Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông.

· Tựa Chung.

· Duyên Khởi Của Kinh.

Phần Thứ II: Phần Chánh Tông.

· Chương I: Chỉ Bày Chân Tâm.

Ø Mục 1: Gạn Hỏi Cái Tâm.

I. Nguyên Do Của Thường TrụLưu Chuyển.

II. Chấp Tâm Ở Trong Thân.

III. Chấp Tâm Ở Ngoài Thân.

IV. Chấp Tâm Núp Sau Con Mắt.

V. Chấp Nhắm Mắt Thấy Tối Là Thấy Bên Trong Thân.

VI. Chấp Tâm Hợp Với Chỗ Nào Thì Liền Có Ở Chỗ Ấy.

VII. Chấp Tâm Ở Chặng Giữa.

VIII. Chấp Tâm Không Dính Dáng Vào Đâu Tất Cả.

Ø Mục 2: Chỉ Rõ Tánh Thấy.

I. Cầu Đi Đến Chỗ Chân Thật.

II. Phóng Quang Nêu Ra Tánh Thấy Viên Mãn Sáng Suốt.

III. Hai Thứ Căn Bản.

IV. Nương Cái Thấy, Gạn Hỏi Cái Tâm.

V. Chỉ Rõ Tính Thấy Không Phải Là Con Mắt.

VI. Ý Nghĩa Chủ Và Khách.

VII. Chỉ Tánh Thấy Không Sanh Diệt.

VIII. Chỉ Chỗ Điên Đảo.

IX. Lựa Bỏ Tâm Phan Duyên Để Chỉ Tánh Thấy Không Thể Trả Về Đâu.

X. Lựa Riêng Trần Cảnh Để Nêu Ra Tánh Thấy.

Ø Mục 3: Phật Nêu Ra Tánh Thấy Ngoài Các Nghĩa “Phải” Và “Chẳng Phải”.

I. Nghi Tánh Hiện Ở Trước Mắt.

II. Chỉ Ra Không Có Cái Gì Tức Là Cái Thấy.

III. Chỉ Ra Không Có Cái Gì Ra Ngoài Tánh Thấy.

IV. Ngài Văn Thù Kính Xin Phật Phát Minh Hai Thứ.

V. Tánh Thấy Không Có Phải Hay Chẳng Phải.

Ø Mục 4: Phá Những Thuyết Nhân Duyên, Tự Nhiên.

I. Nghi Tâm Tính Tự Nhiên Như Thần Ngã.

II. Chỉ Ra Không Phải Là Tự Nhiên.

III. Nghi Là Nhân Duyên.

IV. Tánh Thấy Không Phải Là Nhân Duyên, Rời Các Danh, Tướng.

V. Bác Nhân Duyên, Tự Nhiên.

VI. Chỉ Thẳng Tánh Thấy.

Ø Mục 5: Chỉ Ra Cái Vọng Thấy.

I. Xin Chỉ Dạy Tánh Thấy Chẳng Do Thấy.

II. Chỉ Ra Hai Thứ Vọng Thấy.

Ø Mục 6: Chỉ Rõ Ý Nghĩa Tánh Thấy Không Phải Là Cái Thấy, Viên Mãn Bồ Đề.

Ø Mục 7: Tóm Thu Về Như Lai Tạng.

I. Tóm Thu.

A. Thu Sắc Ấm.

B. Thu Thọ Ấm.

C. Thu Tưởng Ấm.

D. Thu Hành Ấm.

E. Thu Thức Ấm.

F. Thu Sáu Nhập.

G. Thu Mười Hai Xứ.

H. Thu Mười Tám Giới.

II. Thu Bảy Đại.

III. Đốn Ngộ Pháp ThânPhát Nguyện.

Ø Mục 8: Chỉ Rõ Căn Nguyên Hư Vọng Và Tánh Giác Toàn Vẹn.

I. Ông Mãn Từ Trình Bày Chỗ Nghi.

II. Vô Minh Đầu Tiên.

III. Nguyên Nhân Vọng Thấy Có Thế Giới.

IV. Chỉ Rõ Giác Chẳng Sanh Mê.

V. Chỉ Các Đại Có Thể Tương Dung.

VI. Chỉ Tánh Diệu MinhNhư Lai Tạng, Rời Cả Hai Nghĩa “Phi” Và “Tức”.

VII. Chỉ Mê Vọng Không Có Nhân, Hết Mê Là Bồ Đề.

VIII. Lại Phá Xích Nhân Duyên Tự Nhiên.

Ø Mục 9: Chỉ Nghĩa Quyết Định.

I. Các Phép Tu Hành Sau Khi Đốn Ngộ, Phát Bồ Đề Tâm.

II. Tâm Nhân Địa.

A. Xét Rõ Gốc Rễ Phiền Não.

B. Đánh Chuông Để Thể Hiện Tính Thường.

· Chương II: Nương Chỗ Ngộ Mà Tu.

Ø Mục 1: Nêu Ra Cái Căn Để Chỉ Chỗ Mê.

Ø Mục 2: Cột Khăn Để Chỉ Mối Nút Và Cách Mở Nút.

Ø Mục 3: Hỏi Đại Chúng Về Viên Thông.

I. Viên Thông Về Thanh Trần.

II. Viên Thông Về Sắc Trần.

III. Viên Thông Về Hương Trần.

IV. Viên Thông Về Vị Trần.

V. Viên Thông Về Xúc Trần.

VI. Viên Thông Về Pháp Trần.

VII. Viên Thông Về Nhãn Căn.

VIII. Viên Thông Về Tỷ Căn.

IX. Viên Thông Về Thiệt Căn.

X. Viên Thông Về Thân Căn.

XI. Viên Thông Về Ý Căn.

XII. Viên Thông Về Nhãn Thức.

XIII. Viên Thông Về Nhĩ Thức.

XIV. Viên Thông Về Tỷ Thức.

XV. Viên Thông Về Thiệt Thức.

XVI. Viên Thông Về Thân Thức.

XVII. Viên Thông Về Ý Thức.

XVIII. Viên Thông Về Hỏa Đại.

XIX. Viên Thông Về Địa Đại.

XX. Viên Thông Về Thủy Đại.

XXI. Viên Thông Về Phong Đại.

XXII. Viên Thông Về Không Đại.

XXIII. Viên Thông Về Thức Đại.

XXIV. Viên Thông Về Kiến Đại.

Ø Mục 4: Viên Thông Về Nhĩ Căn.

I. Diệu Lực Vô Tác Thành Tựu 32 Ứng Thân.

-Phần 1.

-Phần 2.

II. Bốn Công Đức Vô Úy.

Ø Mục 5: Chỉ Pháp Viên Tu.

I. Phóng Hào Quang, Hiện Điềm Lành.

II. Phật Bảo Ngài Văn Thù Chọn Căn Viên Thông.

III. Lựa Ra Những Căn Không Viên.

IV. Nhĩ Căn Viên Thông Hơn Hết.

* Phụ Lục.

· Chương III: Phật Khai Thị Về Mật Giáo.

· Chương IV: Khai Thị Các Địa Vị Tu Chứng.

Ø Mục 1: Khai Thị Hai Cái Nhân Điên Đảo và Ba Món Tiệm Thứ.

Ø Mục 2: An Lập Các Thánh Vị.

I. Càn Tuệ Địa.

II. Thập Tín.

III. Thập Trụ.

IV. Thập Hạnh.

V. Thập Hồi Hướng.

VI. Tứ Gia Hạnh.

VII. Thập Địa.

VIII. Đẳng GiácDiệu Giác.

Ø Mục 3: Chỉ Dạy Tên Kinh.

· Chương V: Phân Biệt Các Nghiệp Quả Tạo Thành Tam Giới, Chỉ Rõ Các Cảnh Giới Tu Chứng Và Các Chướng Ngại.

I. Hỏi Về Sự Sanh KhởiNhân Quả Của Lục Đạo.

II. Khai Thị Về Phận Trong Phận Ngoài Của Chúng Sanh.

III. Chỉ Ra Mười Tập Nhân Và Sáu Giao Báo.

IV. Không Tu Theo Chánh Giác: Thành Các Thứ Tiên. 

V. Các Cõi Trời

VI. Khai Thị Sự Hư Vọng Của Bảy Loài Để Khuyên Tu Chân Chánh.

VII. Phân Biệt Các Ấm Ma.

A. Nguyên Do Khởi Các Ma Sự.

B. Phạm Vi Của Sắc Ấm.

C. Phạm Vi Của Thọ Ấm.

D. Phạm Vi Của Tưởng Ấm.

E. Phạm Vi Của Hành Ấm.

F. Phạm Vi Của Thức Ấm.

VIII. Sanh TửVọng Tưởng Năm Ấm Mà Có, Lý Tuy Đốn Ngộ, Sự Phải Tiệm Trừ. 

v Phần Thứ III: Phần Lưu Thông.

ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHÂN TU CHỨNG LIỄU NGHĨA CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH THỦ LĂNG NGHIÊM KINH TÔNG THÔNG

Đời Đường :

Ngài Bát Lạt Mật Đế, Sa Môn xứ Thiên Trúc dịch.

Ngài Di Già Thích Ca, Sa Môn xứ Ô Trường dịch ngữ.

Trần Chánh Nghị Đại Phu Phòng Dung, Bồ Tát Giới Đệ Tử chép.

Đời Minh :

Bồ Tát Giới Đệ Tử Tiền Phụng Huấn Đại Phu, Lễ Bộ Từ Tế Thanh Sử Tư Viên Ngoại Lang, Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi tông thông.

Việt dịch :

Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế thiền sư

1994-1950

Biên tập :

Chúng đệ tử Đời Thứ Ba Tây Tạng Tự

ẤN BẢN LẦN THỨ NHẤT - 1997

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11635)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11959)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11113)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11343)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12558)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10766)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17979)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11727)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9947)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15339)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11240)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12000)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11184)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10613)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13169)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14840)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12679)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16575)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19665)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13108)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12666)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12263)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11847)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13523)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11949)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12767)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14516)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9866)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18015)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13048)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10308)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12198)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15313)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14270)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19699)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10691)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant