Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

09. Lựa Bỏ Tâm Phan Duyên Để Chỉ Tánh Thấy Không Thể Trả Về Đâu

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10657)
09. Lựa Bỏ Tâm Phan Duyên Để Chỉ Tánh Thấy Không Thể Trả Về Đâu

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

Mục 2: Chỉ Rõ Tánh Thấy


IX. LỰA BỎ TÂM PHAN DUYÊN ĐỂ CHỈ TÁNH THẤY KHÔNG THỂ TRẢ VỀ ĐÂU

Kinh: Ông Anan vâng nghe lời Phật từ bi cứu độ dạy bảo, khóc lóc khoanh tay bạch Phật rằng: “Tuy tôi vâng nghe diệu âm của Phật như vậy, ngộ được cái Tâm Nguyên Diệu Minh là cái Tâm Địa tròn đầy thường trụ, nhưng tôi ngộ được pháp âm Phật vừa nói, là tôi hiện lấy tâm phan duyênthỏa mãn chỗ ước mong. Được tâm ấy một cách mơ hồ, chưa dám nhận là Tâm Địa xưa nay. Mong Phật thương xót, tuyên lời viên âm, nhổ gốc rễ nghi ngờ cho tôi để được trở về đạo Vô Thượng”.

Phật bảo Ông Anan: “Các ông còn lấy tâm phan duyên để nghe pháp thì cái pháp đó cũng là cái được duyên, chẳng phải được Pháp Tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người kia, thì người kia phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng. Chứ nếu người kia nhìn ngón tay mà cho đó là cái Thể của mặt trăng, thì không những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay nữa. Tại sao thế? Vì lấy ngón tay chỉ mặt trăng mà làm mặt trăng vậy. Chẳng những bỏ mất ngón tay mà lại cũng không biết đâu là sáng và tối. Vì sao thế? Vì lấy cái Thể của ngón tay làm Tánh Sáng của mặt trăng, không biết hai tánh sáng, tối. Ông cũng như vậy đó”.

Thông rằng: Ông Anan ngộ được cái Tâm Nguyên màu sáng tròn đầy vốn chẳng phải là duyên. Tâm Địa thường trụ vốn là Ông Chủ vậy. Nhưng nay nhìn Phật, nghe Pháp, là còn thuộc vọng tâm phan duyên, chưa biết cái Tâm Địa Bổn Nguyên do đâu mà rõ biết? Nói tức là cái này, thì không dám. Nói lìa cái này mà có thì hiện ở đâu? Đức Phật sắp phá cái sai lầm của tâm phan duyên, nên trước chỉ bày rằng cái Pháp đang nói ra cũng chỉ là cái sở duyên, bởi thế Phật dạy “Cái Pháp đang được ông nghe đó cũng chỉ là sở duyên, chớ chẳng phải được Pháp Tánh”. Pháp bày ra là để thấy Tánh, thấy được Tánh thì Pháp không còn chỗ dùng. Kinh Kim Cang nói: “Ví như cái bè. Pháp còn nên bỏ huống là chẳng phải pháp”. Ở đây lại lấy ví dụ ngón tay chỉ mặt trăng, thấy được mặt trăng thì bỏ quên ngón tay đi vậy. Các bậc Cổ đức dẫn dụ phần nhiều tương hợp với chỗ này.

Có câu :

Trong bóng mây màu người tiên hiện

Tay cầm quạt hồng-la che mặt

Cần gấp đưa mắt xem người tiên

Chớ nhìn cây quạt trong tay tiên.

Lại còn nói :

Một thỏ phi thân ngang lối xưa

Ưng xanh vừa thấy liền bắt sống

Đến sau chó săn không linh tính

Chỉ hướng cây khô chỗ cũ tìm.

Ông Tô Đông Pha có bài văn: “Có một người mù hỏi hình thể mặt trời ra sao? Người kia lấy cái mâm đồng mà chỉ cho, người mù gõ lên nghe có tiếng. Ngày khác, nghe tiếng chuông cho đó là mặt trời!”

Có vị tăng hỏi Tổ Pháp Nhãn: “Ngón tay thì chẳng hỏi, thế nào là mặt trăng?”

Tổ Nhãn nói: “Ngón tay mà ông chẳng hỏi đó, là cái gì thế?”

Lại có vị tăng hỏi: “Mặt trăng thì chẳng hỏi, thế nào là ngón tay?”

Tổ Nhãn đáp: “Mặt trăng”.

Vị tăng nói: “Kẻ học nhân hỏi ngón tay, Hòa Thượng vì sao lại trả lời mặt trăng?”

Tổ Nhãn nói: “Vì ông hỏi ngón tay”.

Nếu rõ được gia phong [Thói nhà] của Pháp Nhãn tức thì ngón tay, mặt trăng bày rõ. Chẳng thế, thì ngay mặt lại lầm qua.

Kinh: “Nếu lấy cái phân biệt pháp âm của Ta mà làm tâm của ông, thì cái tâm ấy phải rời sự phân biệt tiếng nói mà tự nó có tánh phân biệt. Ví như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, chẳng thể thường trụ mãi. Còn người chủ trạm thì không đi đâu cả, mới gọi là chủ trạm. Ở đây cũng thế, nếu thật là Tâm của ông thì chẳng đi đâu cả.

Thông rằng: Pháp âm đang nói là cái sở duyên. Chỗ sở duyên ấy, không thể chấp lấy làm Chân. Cái phân biệt pháp âm là cái năng duyên. Cái năng duyên đó há lại có thể y vào nó mà cho là Chân? Ngay khi cái Tâm và cái Tiếng gặp nhau, thì có sự phân biệt rõ ràng, nhưng Cái Phân Biệt đó cũng chỉ tạm thời, giống như người khách. Đến khi cái Tâm và cái Tiếng rời nhau ra, cái phân biệt mất hết, nhưng cái Tánh Phân Biệt không mất. Tánh này chẳng bởi nghe pháp mà có, chẳng bởi không nghe pháp mà thành không, nên gọi là chủ nhân. Nơi chỗ này thấy được, mới gọi là thấy Tánh. Nếu chấp lấy cái tâm phan duyên nghe pháp làm Tự Tánh, thì cũng giống như nhận khách làm ông chủ vậy.

Thầy Đại Điên [Đại Điên Hòa Thượng. Được mối thiền Tào Khê, nối pháp Tổ Thạch Đàu, ở Ấp Tây U Lãnh, dưới chân núi lập thiền viện Linh Sơn, truyền pháp cho đệ tử cả ngàn người] ban đầu tham học với Tổ Thạch Đầu.

Tổ hỏi: “Cái gì là Tâm ông?

Thầy Đại Điên nói: “Thấy ngôn ngữ là đó”.

Tổ Đầu bèn hét đuổi ra.

Qua một tuần, thầy Đại Điên bèn hỏi: “Cái trước đã chẳng phải, trừ cái ấy, ngoài ra cái gì là Tâm?”

Tổ Đầu nói: “Dẹp hết nhướng mày chớp mắt, đem Tâm lại đây!”

Thầy Điên nói: “Không có Tâm có thể đem lại được”.

Tổ Đầu rằng: “Xưa nay là có Tâm, sao nói không Tâm? Không Tâm cũng như báng pháp!”

Thầy Đại Điên nghe xong đại ngộ.

Một hôm, đứng hầu Ngài Thạch Đầu, Tổ hỏi: “Ông là tăng tham thiền hay là tăng tu Tịnh Nghiệp (Tịnh Độ) của Châu, Huyện?”

Đại Điên: “Là tăng tham thiền”.

Tổ Đầu: “Cái gì là thiền?”

Đại Điên: “Nhướng mày, chớp mắt”.

Tổ Đầu: “Dẹp hết nhướng mày chớp mắt, đem cái Bổn Lai Diện Mục của ông trình ra xem!”

Đại Điên: “Xin Hòa Thượng dẹp hết nhướng mày chớp mắt ra ngoài để soi xét”.

Tổ Đầu: “Ta dẹp rồi”.

Đại Điên: “Đem trình ra rồi vậy”.

Tổ Đầu: “Ông đã đem trình, Tâm ta thì sao?”

Đại Điên: “Chẳng khác Hòa Thượng”.

Tổ Đầu : “Chẳng liên quan việc ông”.

Đại Điên: “Vốn không vật”.

Tổ Đầu: “Ông cũng không vật”.

Đại Điên: “Đã không vật tức là chơn vật”.

Tổ Đầu: “Chơn Vật là Bất Khả Đắc, tâm ông thấy như vậy phải rất hộ trì”.

Cha con Thạch Đầu mấy phen lật qua, lật lại biện xét cốt để thẩm định Chơn Tâm, vốn là vô sở đắc, gọi là Chơn Chủ Nhân.

Kinh: “Tại sao lìa tiếng lại không có tánh phân biệt? Nói như thế chẳng những đối với tâm phân biệt các tiếng, mà cái phân biệt hình dung của Ta nếu rời các sắc tướng cũng không có tánh phân biệt.

“Như vậy cho đến mọi phân biệt đều không có, chẳng phải Sắc, chẳng phải Không, mà nhóm Câu Xá Ly mê lầm cho là Minh Đế, thì rời các pháp duyên cũng không có tánh phân biệt. Như vậy, Tâm Tánh của ông mỗi mỗi đều có chỗ trả về, làm sao làm chủ?

Thông rằng: Phân biệt âm thanh, phân biệt Sắc, Hương, Vị, Xúc, các Trần đều là bóng dáng phân biệt tiền trần. Tại sao lìa các tiền trần liền chẳng có tự tánh phân biệt? Dù cho diệt hết tất cả Thấy, Nghe, Hay, Biết cho đến phân biệt cũng không còn, ở trong giữ lấy cái Không-Không u nhàn, chẳng phải Sắc, chẳng phải Không mà ngoại đạo chấp lấy làm Minh Đế thì cũng mới chỉ là rời cảnh chứ chưa rời pháp, vẫn còn là bóng dáng phân biệt pháp trần.

Tại sao lại rời pháp duyên thì không có tự tánh phân biệt? Nhờ tiền trần mà có thì rời tiền trần bèn không. Nhờ pháp trần mà có, thì rời pháp trần bèn không có. Cái tánh phân biệt này, mỗi mỗi đều có chỗ trả về, làm sao làm ông chủ? Một cái Động (phân biệt tiền trần), một cái Tĩnh (phân biệt pháp trần) đều thuộc về bóng trong gương: bóng có chỗ trả về, gương thì chẳng có trả về đâu hết. Một lần đến, một lần đi đều thuộc về khách. Khách có về, chủ không có chỗ về. Không nhận gương mà nhận bóng, không nhận chủ mà nhận làm khách thì Tâm Tánh của ông cũng đồng với đoạn diệt, lấy gì làm Chân Tâm Thường Trụ?

Tổ Đại Điên thượng đường dạy rằng: “Phàm là người học đạo, cần phải biết cái Bổn Tâm của nhà mình. Thường thấy kẻ học đạo đời nay chỉ lấy nhướng mày, nháy mắt, một nói một nín rồi tự ấn khả mà cho là tâm yếu, như vậy thật là chưa rõ. Nay ta vì các ông mà nói ra rõ ràng, mỗi người nên nghe lãnh: chỉ dẹp trừ hết thảy hiện lượng tưởng niệm vọng động, đó tức là Chân Tâm. Cái Tâm này dầu với trần cảnh hay khi giữ vắng lặng, tuyệt khônggiao thiệp, dính dáng gì. Tức Tâm là Phật, chẳng đợi tu hành, sửa chữa. Tại sao thế? Ứng cơ tùy chiếu, an nhiên tự dùng. Cùng tột chỗ dùng vốn bất khả đắc. Gọi đó là Diệu Dụng, ngay ấy là Bổn Tâm, phải rất hộ trì, không thể dễ dãi”.

Tổ Đại Điên chỉ ra rõ ràng ông chơn chủ, tiết lộ quá nhiều! Do đây có thể biết là Chơn Tâm cách biệt hẳn với Minh Đế của ngoại đạo.

Phái Số Luận phân tích vũ trụ gồm hai mươi lăm Đế, trừ Minh Đế là chẳng phải Sắc, chẳng phải Không, chẳng phải Tâm, còn lại đều chẳng ra ngoài Sắc, Không và Tâm.

Giác Đế Ngã Tâm, năm Tri Căn, năm Tác Nghiệp Căn, Tâm Bình Đẳng Căn cho đến Thần Ngã thuộc về Tâm. Năm Trần, năm Đại thuộc về Sắc. Không Đại thuộc về Không.

Cái Đế đầu tiên hết gọi là Minh Tánh, suy nghĩ cho là thường tồn. Cái Đế thứ hai mươi lăm gọi là Thần Ngã cũng cho là thường. Thần Ngã suy nghĩ về Thánh cảnh của mình thì Minh Tánh bèn biến đổi thành hai mươi ba Đế còn lại để cho Thần Ngã dùng. Chỗ mà Ngã thọ dụng, thì bị cảnh trói buộc, chẳng được giải thoát. Nếu Ngã chẳng suy nghĩ thì Minh Đế chẳng biến tức không trói buộc, cái Ngã bèn giải thoát. Đây là tông chỉ của phái này.

Ông Cáo Tử dạy rằng: “Chẳng được nơi lời thì chớ cầu nơi Tâm. Chẳng được nơi Tâm, chớ cầu nơi Khí”, rõ là một lối với Minh Đế, có người nói đó là Thiền, thật lầm to!

Kinh: Ông Anan thưa: “Nếu cái Tâm Tánh của tôi mỗi mỗi đều có chỗ trả về, thì cái Diệu Minh Nguyên TâmNhư Lai nói đó sao lại không trả về? Xin Phật thương xót chỉ bảo cho tôi điều ấy”.

Phật bảo Ông Anan: “Hãy lấy cái Kiến Tinh Minh Nguyên [Cái Thấy Vốn Sáng] của ông thấy tôi đây. Tuy cái Thấy này không phải là cái Minh Tâm Diệu Tinh [Chân Tâm], nhưng nó như mặt trăng thứ hai, chứ chẳng phải là bóng của mặt trăng (trên mặt nước). Ông nên nghe kỹ, nay Ta chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.

“Này Ông Anan, cái đại giảng đường này mở rộng về phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm không trăng, mây mù mờ mịt thì lại tối tăm. Chỗ có các cửa thì thấy thông suốt, chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bít. Chỗ phân biệt được thì thấy cảnh sắc duyên. Chỗ trống rỗng toàn là hư không. Khi bụi nổi lên thì cảnh tượng mù mịt. Mưa tạnh trời quang lại thấy trong sạch.

“Này Ông Anan, ông đều xem rõ các tướng biến hóa ấy. Nay ta trả mỗi thứ về chỗ bản nhân của chúng. Thế nào là Bản Nhân? Ông Anan, các thứ biến hóa này: cái sáng trả về cho mặt trời. Vì sao thế? Vì không mặt trời thì không sáng, ánh sáng thuộc về mặt trời, nên trả về cho mặt trời. Cái tối trả về cho đêm không trăng. Thông suốt trả về cho các cửa. Ngăn bít trả về cho tường vách. Sắc duyên trả về cho phân biệt. Trống rỗng trả về cho hư không. Mù mịt trả về cho bụi bặm, trong sáng trả về cho trời tạnh. Tất cả những sự vật gì trong thế gian đều không ra ngoài những loại ấy.

“Còn cái Thấy (Kiến Tinh Minh Tánh) của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu? Tại sao thế? Nếu trả nó về cho cái sáng, thì lúc không sáng chẳng thể thấy tối. Tuy là sáng tối các thứ có sai biệt, còn cái Thấy không có sai biệt.

“Các thứ có thể trả về, tự nhiên chẳng phải là ông, còn cái không trả về được, không phải chính ông thì là ai? Thế mới biết rằng Tâm ông vốn nhiệm mầu, sáng sạch, ông tự mê muội bỏ mất Bổn Tánh mà chịu luân hồi sanh tử, thường bị chìm đắm. Thế nên Như Lai gọi là đáng thương xót!”.

Thông rằng: Cái Thấy phân biệt duyên trần với cái Kiến Tinh Minh Nguyên khác nhau ở chỗ Năng, Sở. Cái Kiến Tinh Minh Nguyên đối với cái Minh Tâm Diệu Tinh phân ra ở chỗ Thể, Dụng. Bởi thế, cái Minh Tâm Diệu Tinh như mặt trăng thật, cái Kiến Tinh Minh Nguyên như mặt trăng thứ hai (do đè lên mắt mà thấy), còn cái Thấy phân biệt duyên Trần như bóng mặt trăng trong nước.

Trong hư không, nói cho cùng chỉ có tám thứ : sáng, tối, thông, bít... tới, lui, nên nói “Không ngoài các thứ ấy”. Cũng phảng phất tương tự như Bát Quái : trong sáng và mù mịt là tượng của Càn Khôn. Ngày sáng, đêm tối là tượng của Khảm, Ly. Thông, bít là tượng của Cấn, Đoài. Sự phân biệt thuộc động, tượng của Chấn. Tánh hư không tựa gió, nên là tượng của Tốn vậy.

Còn nơi Tâm người thì “thông, bít” gồm đủ cả mê, ngộ. “Duyên, sắc, hư không” đủ cả Hữu, Vô. Đục, trong gồm đủ cả thế trần và giác ngộ. Sáng, tối đủ cả Thánh, phàm. Tất cả đều là cảnh. Cảnh thì có sai biệt, cái Thấy không có sai biệt. Có sai biệt thì có chỗ trả về, còn không sai biệt thì vốn tự bất động. Các thứ có thể trả về là Cảnh, là Vật, chẳng phải là ông. Cái “Tự ông” chẳng thể trả về cho vật là cái Thấy, chẳng phải Vật, đó là cái Chơn Kiến Tinh của ông vậy. Có thể trả về gọi là Khách, không trả về đâu được là Chủ. Cái Kiến Tinh Minh Nguyên đã là như vậy, huống gì là cái Chơn Tâm vốn nhiệm mầu, sáng sạch không rơi vào cái Thấy, là Ông Chủ ở trong Ông Chủ. Ông Chủ trong Ông Chủ là cái căn bản chẳng sanh chẳng diệt, người người đều sẵn đủ, chẳng ở ngoài đến. Chẳng tự mình làm Ông Chủ, lưu lạc làm Khách là cũng bởi không nhận ra mặt trăng thật, mà lại nhận bóng mặt trăng trong nước làm Tự Tâm, làm sao khỏi đắm chìm sanh tử?

Có vị tăng hỏi Tổ Tào Sơn: “Cổ đức nói “Hết cả đại địa độc chỉ có một người này”, chưa biết là người nào?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng thể có mặt trăng thứ hai”.

Hỏi : “Như thế nào là mặt trăng thứ hai?”

Tổ Sơn nói : “Cái đó cần lão huynh định lấy!”

Hỏi : “Thế sao là mặt trăng thứ nhất?”

Tổ Sơn nói : “Nguy!”

Một chữ Nguy này đủ thấy Tổ Tào Sơn chẳng dám bỏ mất Tánh Bổn Nhiên mà chịu luân hồi, chỗ tối thân thiết vậy.

Thầy Báo Từ Văn Toại thường nghiên cứu Thủ Lăng Nghiêm, ra mắt Tổ Pháp Nhãn, kể lại chỗ sinh sống của mình rất phù hợp với ý chỉ của kinh. Tổ Nhãn rằng: “Kinh Lăng Nghiêm há chẳng có cái nghĩa “Tám chỗ trả về” ư ?”

Sư Toại đáp : “Dạ, có”.

Tổ hỏi : “Cái sáng trả về cái gì?”

Đáp : “Sáng trả về mặt trời”.

Tổ hỏi : “Mặt trời trả về cái gì?”

Sư Toại ngẩn ngơ, không đáp được. Từ đó, khâm phục Tổ mà cầu học.

Thế mới biết cái chuyện Ông Chủ trong Ông Chủ chẳng phải là chỗ mà Chú, Sớ đến được.

Ngài Đoan Sư Tử tụng rằng:

“Giáo pháp Bát Hoàn có đã lâu

Từ xưa Chư Tổ mỗi phanh phui

Dầu chi hoàn được không hoàn được

Ấy cũng sức tôm chẳng khỏi thau”.

(Bát Hoàn chi giáo thùy lai cửu

Tự cổ tông sư các phân phẫu

Trực nhiên hoàn đắc bất hoàn thời

Dã thị hà khiên bất xuất đẩu).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12487)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14090)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10838)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11166)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11974)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13608)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33627)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11313)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12887)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13027)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11598)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17858)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11399)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11811)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11464)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18949)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12516)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11303)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13121)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15730)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11791)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11676)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12733)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12612)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13926)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12905)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13266)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12737)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11705)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11698)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12305)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12370)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19806)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11935)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11972)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16866)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12656)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15049)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16088)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12857)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12204)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11900)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11913)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16487)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13216)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12464)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11791)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11237)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11069)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10947)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10016)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11724)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant