Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

01. Tóm Thu

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 13757)
01. Tóm Thu

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

Mục 7: Tóm Thu Về Như Lai Tạng

I. TÓM THU

Kinh: “Anan, ông còn không biết rằng hết thảy các tướng huyễn hóa của tiền trần ngay nơi chỗ mà sanh ra, tùy theo chỗ mà diệt mất. Hư huyễn vì mê vọng nên nói là tướng, chứ thật tánh chúng là Diệu Giác Minh Thể. Như vậy, cho đến năm Ấm, sáu Nhập, mười hai Xứmười tám Giới đều là: - Nhân Duyên hòa hợp: in tuồng có sanh ra; - Nhân Duyên chia lìa: in tuồng diệt mất. Quyết chẳng biết rằng sanh, diệt, đến, đi vốn là Như Lai Tạng Tánh thường trụ, mầu sáng, bất động, tròn khắp, tánh diệu Chân Như. Trong Tánh Chân Thường ấy mà tìm cầu cho ra tướng đến, đi, mê, ngộ, sanh, tử rốt là không được.

Thông rằng: Ở đây bày thẳng Đốn Môn, mở ra con đường Diệu Bồ Đề, tức là ngay trong phù trần huyễn hóa mà chứng Chân Như. “Trong Tánh Chân Thường mà tìm cầu cho ra tướng đến, đi, mê, ngộ, sanh, tử rốt là không được”.

Các thứ Ấm, Nhập, Xứ, Giới chỉ có tướng huyễn vọng. Huyễn không tự tánh, nương Chân mà lập như hoa đốm khởi lên giữa hư không, toàn thể hoa đốmhư không. Như sóng sanh trên nước, toàn sóng là nước. Cho nên kinh nói “Tánh của chúng thật là Diệu Giác Minh Thể”, Thể này chính là Pháp Thân. Tự nó gồm chứa vô lượng công đức nên gọi là Như Lai Tạng. Vốn chẳng đến đi, nên gọi là Thường Trụ. Vốn chưa từng mê muội, nên gọi là Diệu Minh. Vốn không sanh diệt, nên gọi là Bất Động. Vốn tự sẵn đủ nên nói là Tròn Khắp, Châu Viên. Một vị Thường Trụ nên Đến Đi bất khả đắc. Một vị Diệu Minh nên mê ngộ bất khả đắc. Một vị Bất Động nên sanh tử bất khả đắc. Một vị Tròn Khắp nên Chân Thường.

Cái gọi là Tánh Chân Như Mầu Nhiệm ở đây kỳ thật là cái “Xưa nay không một vật” vậy.

nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Kẻ học nhân này chẳng hiểu, Hòa Thượng chỉ bày như thế nào?”

Tổ Hoàng Bá nói: “Ta không có một vật nào hết. Từ xưa đến giờ chẳng từng đem ra một món vật cho người. Ông từ vô thủy đến nay chỉ vì bị người ta chỉ bày rồi tìm kiếm chuyện Khế Hợp, tìm kiếm chuyện Hiểu Ngộ. Như thế thì chẳng phải cả thầy trò đều lọt vào nạn vua sao ? Ông chỉ cần biết rằng, một niệm chẳng thọ tức là không có cái Thân Thọ. Một niệm không tưởng đến tức là không có cái Thân Tưởng. Quyết chẳng có trôi theo sự tạo tác, tức là không có cái Thân Hành. Chẳng có nghĩ suy, so sánh, phân biệt tức là không có cái Thân Thức. Nay ông vừa khởi ra một niệm tức thì có ngay vòng Thập Nhị Nhân Duyên: Vô Minh duyên ra Hành, vừa Nhân vừa Quả; cho đến Lão, Tử cũng vừa Nhân vừa Quả.

“Cho nên đồng tử Thiện Tài đi một trăm mười nơi cầu thiện tri thức, chỉ là hướng vào Thập Nhị Nhân Duyên mà cầu. Sau rốt gặp Đức Di Lặc. Đức Di Lặc lại chỉ đến gặp Đức Văn Thù. Văn Thù ấy, chính là cái Bổn Địa Vô Minh của ông. Nếu tâm tâm riêng khác, hướng ngoài mà tìm cầu thiện trí thức, thì một niệm vừa sanh liền diệt, vừa diệt liền sanh. Bởi thế, Tỳ Kheo các ông cũng sanh, cũng lão, cũng bệnh, cũng tử. Trả Nhân đền Quả xưa nay, tức là sự sanh diệt của năm Tụ. Năm Tụ là năm Ấm. Một niệm chẳng khởi tức là mười tám Giới bèn không, ngay thân là hoa trái Bồ Đề, ngay tâm tức là Bát Nhã. Nếu có chỗ dừng bám, thì ngay thân là xác chết, cũng gọi là quỉ giữ xác chết”.

Lời nói này của Tổ Hoàng Bá chẳng phải làm sáng tỏ câu kinh “Hư huyễn vì mê vọng nên nói là tướng, chứ thật tánh của chúng chính là Diệu Giác Minh Thể” đó sao?

Ông Hạo Nguyệt cúng dường, hỏi Tổ Trường Sa: “Rõ thì nghiệp chướng vốn là không. Chưa rõ, nợ xưa đành trang trải [Chứng Đạo Ca]”, vậy thì Tổ Sư Tử Tôn giả và Nhị Tổ Huệ Khả vì sao phải trả nợ xưa?”

Tổ Sa nói: “Đại Đức chẳng biết Bổn Lai Không [Cái xưa nay vốn Không].”

Hỏi: “Như thế nào là Bổn Lai Không?”

Đáp: “Là nghiệp chướng”.

Hỏi: “Như thế nào là nghiệp chướng?”

Đáp: “Là Bổn Lai Không”.

Rồi Tổ Sa dùng bài kệ chỉ bày:

“Giả Có, vốn chẳng Có

Giả Diệt, cũng chẳng Không

Nghĩa Niết Bàn, trả nợ

Một Tánh, chẳng khác gì”.

(Giả Hữu nguyên phi Hữu

Giả Diệt diệc phi Vô

Niết Bàn, thường trái nghĩa

Nhất Tánh, cánh vô thù).

Lời dạy này của Tổ Trường Sa chẳng phải làm rõ câu “Sanh diệt, đến đi đều vốn là Tánh Chân Như tròn khắp, bất động, mầu sáng, thường trụ của Như Lai Tạng” đó sao?

Lại Tổ Giáp Sơn về Tổ Định Sơn vừa đi vừa nói chuyện.

Tổ Định Sơn nói: “Trong sanh tử mà không có Phật, thì không có sanh tử”.

Tổ Giáp Sơn nói: “Trong sanh tử mà có Phật thì chẳng mê sanh tử”.

Hai bên chẳng chịu nhau, bèn có đến Tổ Đại Mai.

Giáp Sơn bèn thuật lại và hỏi chỗ thấy, hiểu của ai gần hơn.

Tổ Mai nói: “Một gần, một xa”.

Giáp Sơn lại hỏi: “Cái nào gần”.

Tổ Mai rằng: “Thôi về đi, ngày mai đến”.

Hôm sau, Giáp Sơn lại tới hỏi nữa.

Tổ Mai nói: “Gần thì chẳng hỏi, hỏi thì chẳng gần”.

Sau này, Ngài Giáp Sơn tự bảo : “Lúc đó mất một con mắt lẻ”.

Đây là một tắc, chẳng phải làm rõ câu “Trong Tánh Chân Thường mà cầu cho ra những cái đến đi, mê ngộ, sanh tử rốt là không được” đó sao?

Bản chú giải xưa cho rằng: Từ bảy chỗ trưng tâm và biện ra cái Thấy cho đến đây là rộng phá Chấp Ngã, là pháp Quán Không, Xa Ma Tha. Từ đây trở xuống là rộng phá Chấp Pháp, tức là pháp Quán Giả, Tam Ma Đề. Đối với chỗ “Chỉ thẳng Tâm người, thấy Tánh thành Phật” còn cách xa một đoạn đường.

Như thế là chưa hiểu rằng pháp Diệu Xa Ma Tha mà Ông Anan hỏi, thì ở đây, được đáp là Diệu Chân Như Tánh. Chỉ một chữ Diệu, thật khó hình dung, người ngộ tự biết lấy.

A. THU SẮC ẤM

Kinh: “Anan, thế nào năm Ấm vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh?

Thông rằng: Năm Ấm cũng gọi là năm Uẩn. Uẩn nghĩa là chứa nhóm, tích tụ. Ấm nghĩa là che đậy. Tích tụ hữu vi, che đậy Chân Tánh, cho nên cùng gọi là phạm vi của năm Ấm, rất là khó phá. Ở đây nói “Vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh” là nói suy từ gốc thì năm Ấm duyên khởi từ trong Như Lai Tạng mà lưu xuất ư? Hay là nói năm Ấm đều Không, tức hiển bày Tánh Diệu Chân Như ư? Điều này thuộc về Đốn Môn, tức là ở đoạn trước gọi là “Con Đường Diệu Tu Hành các Tam Ma Đề Đại Tổng Trì”. Chính là ở đây chỉ rằng : Ngũ Ấm tức là Như Lai Tạng, tức là Tánh Diệu Chân Như, không hai, không khác! Như thế thì dẹp tan Ngũ Ấm, cũng không có thứ lớp. Như luận về Lý Đốn Ngộ, phải ngay đây thấy được năm Ấm đều tự Vô Sanh, đều tự Tịch Tĩnh, cầu tướng năm Ấm rốt là không thể được. Thế thì năm Ấm đâu chẳng phải là Chân Như, mà Chân Như nào chẳng hề là Ngũ Ấm ư?

nhà sư hỏi Tổ Quy Sơn An rằng: “Rời bỏ năm Ấm, thế nào là cái thân xưa nay?”

Tổ An nói: “Đất, Nước, Lửa, Gió, Thọ, Tưởng, Hành, Thức”.

Vị sư nói: “Cái đó là năm Ấm”.

Tổ An nói: “Cái đó chẳng phải năm Ấm”.

Lại hỏi: “Cái Ấm này đã hết mà cái Ấm kia chưa sanh, thì như thế nào?”

Tổ An nói: “Cái Ấm này chưa hết, Đại Đức là cái gì?”

Đáp: “Chẳng hiểu được”.

Tổ An nói: “Nếu hiểu cái Ấm này, bèn rõ Ấm kia”.

Như theo Tổ An, quả là thấu suốt Ngũ Ấm vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.

Kinh: “Anan, ví như có người dùng con mắt trong sạch xem hư không trong tạnh, chỉ thấy một hư không trong sáng, vắng lặng chẳng có gì. Người ấy khi không chẳng lay động con mắt, nhìn sững hồi lâu nên mỏi mắt, bèn ở nơi hư không riêng thấy hoa đốm loạn xạ, lại thấy có tất cả những tướng giả dối lăng xăng. Nên biết rằng Sắc Ấm cũng là như thế.

“Anan, các hoa đốm lăng xăng ấy chẳng phải từ hư không mà đến, chẳng phải từ con mắt mà ra. Thật vậy, Anan, nếu nói từ hư không mà đến, đã từ hư không đến thì phải lại trở vào hư không. Nếu có ra, có vào như thế thì đã chẳng phải là hư không. Hư không mà chẳng phải trống rỗng thì tự nhiên không thể dung chứa hoa đốm sanh diệt ở trong ấy, cũng như thân thể Anan không thể dung chứa được một Anan khác.

“Còn cho rằng hoa đốm từ con mắt mà ra, đã từ con mắt ra thì phải trở vào con mắt. Lại cái tính hoa đốm ấy đã từ con mắt mà ra thì lẽ ra phải có Tánh Thấy. Nếu có Tánh Thấy thì khi đã ra làm hoa đốm giữa hư không, phải trở lại thấy được con mắt. Nếu khôngTánh Thấy, thì khi đi ra phải che lấp hư không, khi trở vào phải che lấp con mắt! Hơn nữa, khi thấy hoa đốm, đáng lẽ con mắt phải không lòa, chứ sao thấy hư không trong sáng thì mới gọi là con mắt trong sạch?

“Vậy, nên biết rằng: Sắc Ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Ngài Long Thọbài kệ:

“Các pháp chẳng tự sanh

Cũng chẳng do (cái) khác sanh

Chẳng chung, chẳng không nhân

Nên gọi là vô sanh”.

(Chư pháp bất tự sanh

Diệc bất tùng tha sanh

Bất cọng bất vô nhân

Thị cố thuyết vô sanh).

Phàm các pháp chẳng tự sanh, vì chờ có các Duyên vậy. Chẳng do cái khác sanh, vì các Duyên đều vô tự tánh. Chẳng cùng sanh vì thể của trí và tu hành là không; vô tự tánh nên không hợp, không tán. Chẳng không Nhân, vì phải chờ tu hành giác ngộ mới hiển lộ, chứ chẳng phải tự nhiên mà thành.

Hãy biết rằng cái Diệu Giác Minh Thể này lìa ngoài hết thảy mọi lỗi lầm, vốn Tự Vô Sanh vậy. Từ năm Ấm, sáu Nhập, mười hai Xứ, mười tám Giới cho đến bảy Đại chẳng có chỗ nào không làm rộng sáng cái ý này. Ngộ được Vô Sanh tức là Con mắt thanh tịnh. Xưa nay vốn tự không hoa đốm, chỉ vì nhìn sững mà hoa mắt. Trái với Chân, hiệp với Vọng, bèn thấy có hoa. Hoa vốn không Thể, chẳng từ đâu sanh. Chỉ hết bệnh nhặm, hoa cuồng loạn tự diệt. Nếu ở nơi hoa đốm lăng xăng mà cho là có chỗ sanh ra, tức là tánh Nhân Duyên; nói là không có chỗ phát sanh, là tánh Tự Nhiên. Nay xét chỗ sanh ra, thì chẳng ở hư không mà sanh, cũng chẳng ở con mắt mà sanh, thì rõ là chẳng phải Nhân Duyên. Nếu quả là Tự Nhiên mà có thì khi thấy hoa đốm lẽ ra tự mình không có bệnh nhặm. Nếu không có bệnh nhặm mà thấy hoa đốm thì con mắt thấy hoa đốm phải gọi là con mắt trong sạch! Và thấy hư không trong sáng phải là con mắt nhặm! Thế, tại sao khi thấy hư không trong sáng lại gọi là con mắt trong sạch? Hoa đốm này chắc phải do bệnh nhặm mà sanh, chứ rõ ràng chẳng phải tự nhiên vậy!

Ôi! Hoa đốm đã thế, thì Sắc Ấm cũng thế. Vốn đều hư vọng, vốn vô tự tánh, tức Sắc tức Không. Cho nên gọi đó vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh vậy.

Đức Mã Tổ dạy chúng rằng: “Ba cõi duy chỉ là Tâm, muôn hình vạn tượng đều là một Pháp Ấn. Phàm thấy sắc là thấy tâm. Tâm chẳng tự là tâm, nhân sắc mà có. Các ông chỉ tùy thời mà nói năng, thì sự tức là lý, đều không chỗ ngại. Đạo quả Bồ Đề cũng lại như thế. Nơi tâm sanh ra thì gọi là sắc. Biết sắc là không thì sanh tức là chẳng sanh. Nếu hiểu ý này mới khá tùy thời ăn cơm mặc áo, nuôi lớn Thánh Thai [Điạ vị Thập Trụ, Thập Hành, Thập Hồi Hướng thuộc về Tam Hiền, gọi là Thánh Thai. Do chỗ tự dùng mình gieo làm nhân, bạn lành làm duyên, nghe chánh pháptu tập nuôi lớn đến bậc Sơ Địa, thấy được Đạo, sanh trong nhà Phật], mặc tình qua ngày qua buổi, còn chuyện gì đâu! Các ông thọ lãnh giáo pháp của ta, hãy nghe kệ rằng:

“Tâm địa tùy thời nói

Bồ Đề chỉ là thế

Sự, lý đồng không ngại

Đang sanh tức chẳng sanh”.

(Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ Đề diệc chỉ ninh

Sự, Lý cu vô ngại

Đương sanh tức bất sanh).

Tổ Vân Môn dạy chúng rằng: “Chân Không chẳng hoại Có. Chân Không không khác Sắc”.

Có vị sư hỏi: “Cái gì là Chân Không?”

Tổ Môn nói: “Ông có nghe tiếng chuông không?”

Đáp: “Đó là tiếng chuông”.

Tổ Môn nói: “Năm Lừa [Năm Lừa : năm không có trong mười hai chi] mộng thấy được sao?”

Thiền sư Cao An Nhân dạy chúng rằng: “Bình thường chẳng muốn hướng theo lời trước, câu sau mà cổ vũ đùa giỡn với nam nữ nhà người. Vì sao? Vì thanh chẳng phải thanh, sắc chẳng phải sắc”.

Có vị tăng hỏi: “Như thế nào là thanh chẳng phải thanh?”

Đáp: “Gọi là sắc được không?”

Hỏi: “Như thế nào là sắc chẳng phải sắc?”

Đáp: “Gọi là thanh được chăng?”

Vị tăng làm lễ tạ.

Tổ Bèn nói: “Hãy thử nói xem: vì ông mà nói? Hay đáp lại lời ông? Nếu có người rõ được thì có chỗ nhập”.

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

“Sắc tự sắc, hề, thanh tự thanh

Oanh non hót liễu, khói mong manh

Cửa cửa đều thông về kinh quốc

Nghiêng nghiêng ba đảo, biển đầy trăng

(Sắc tự sắc hề thanh tự thanh

Tân oanh đề xứ liễu yên kinh

Môn môn hữu lộ thông kinh quốc

Tam đảo tà hoành hải nguyệt minh).

Cho nên, biết Sắc Ấm vốn là Tánh Diệu Chân Như, liền đạt Vô Sanh đó.

B. THU THỌ ẤM

Kinh: “Anan, ví như có người tay chân yên ổn, năm vóc điều hòa, bỗng như quên mình, không có gì là trái là thuận. Người ấy khi không lấy hai bàn tay xoa nhau giữa hư không, thì nơi hai bàn tay ấy giả dối sanh ra những Cảm Xúc trơn rít, lạnh nóng. Nên biết Thọ Ấm cũng lại như thế.

“Anan, các Cảm Xúc giả dối kia không phải từ hư không mà đến, không phải từ bàn tay mà ra. Thật vậy, Anan, nếu từ hư không mà đến thì đã sanh Cảm Xúc nơi bàn tay, sao lại không sanh Cảm Xúc nơi thân thể, không lẽ hư không lại biết lựa chỗ để sanh ra Cảm Xúc? Nếu như từ bàn tay mà ra, thì lẽ ra không cần hai tay phải hợp lại. Lại đã từ bàn tay mà ra thì khi bàn tay hợp lại, biết có Cảm Xúc, đến khi bàn tay rời ra thì Cảm Xúc phải chạy vào, và xương tủy cánh tay phải biết đường vào của Cảm Xúc. Rồi hẳn phải có tâm hay biết, biết ra, biết vào và phải có một vật gì đi lại trong thân, sao lại phải chờ đến hai tay hợp lại mới gọi là Cảm Xúc?

“Vậy, nên biết rằng: Thọ Ấm hư vọng, vốn chẳng phải tính Nhân Duyên, chẳng phải tính Tự Nhiên.

Thông rằng: Trong cái Tạng Tánh không có các lãnh thọ. Khởi ra xúc tình nơi Cảnh, đem Cảnh vào tâm thì gọi là Thọ. Cho nên lấy hai tay xoa vào nhau thì hư vọng sanh ra trơn rít, lạnh nóng... Lạnh nóng vốn không có, do tiếp xúc mà có, nên gọi là huyễn xúc. Nếu Thọ Ấm do Nhân Duyên hay Tự Nhiên mà sanh thì không thể gọi là hư vọng. Nay Thọ chẳng phải từ hư không cũng chẳng phải từ bàn tay, tức là chẳng phải Nhân Duyên. Phải chờ hợp lại mới biết tức là chẳng phải Tự Nhiên. Chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, đương thể Tịch Diệt. Vốn tự chẳng sanh thì không phải là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh sao? Gọi là Nhiệm Mầu (Diệu), vì Thọ mà thật chẳng Thọ.

Đức Thế Tôn nhân có vị Phạm Chí Trường Trảo đến để nghị luận, và cam đoan trước rằng: “Nếu cái nghĩa của tôi rớt, tôi sẽ tự chặt đầu”.

Thế Tôn nói: “Nghĩa của ông lấy gì làm Tông?”

Ông Phạm Chí đáp: “Tôi lấy “Tất cả đều chẳng lãnh thọ làm Tông”.

Thế Tôn nói: “Cái Thấy đó có thọ không?”

Vị Phạm Chí phất tay áo bỏ đi. Đến giữa đường, ông bèn tỉnh ngộ mà bảo với đệ tử rằng: “Ta phải trở lại dâng đầu cho Thế Tôn!”

Các đệ tử nói: “Trước đại chúng trời, người, Ngài đã thắng cuộc, sao lại chém đầu?”

Ông đáp: “Ta thà ở trước người Trí mà chém đầu còn hơn ở giữa người vô Trí mà đắc thắng”.

Rồi than rằng: “Nghĩa của ta bị rớt vào cả hai chỗ : Cái Thấy mà có thọ, là rơi vào phần thô. Cái Thấy mà không thọ, là rơi vào phần tế. Tất cả trời, người và hàng Nhị Thừa đều chẳng biết chỗ rơi kẹt của cái nghĩa ta đưa ra. Chỉ có Thế Tôn và các Đại Bồ Tát biết được cái nghĩa của ta bị rớt”.

Bèn trở lại chỗ Thế Tôn và thưa rằng : “Nghĩa của tôi bị rớt kẹt ở hai nơi, xin tự chặt đầu dâng Ngài”.

Đức Thế Tôn dạy: “Trong pháp của ta không có việc như vậy. Ông nên hồi tâm mà hướng về đạo”.

Ông Phạm Chí bèn cùng năm trăm đệ tử xuất gia theo Phật và chứng A La Hán.

Ôi, Thọ Ấm vi tế đến như vậy, đâu dễ gì phá!

C. THU TƯỞNG ẤM

Kinh: “Anan, ví như có người khi nghe nói đến trái mơ chua thì trong miệng chảy nước miếng. Khi nghĩ đến đứng trên vực núi thì lòng bàn chân thấy rợn rợn. Nên biết Tưởng Ấm lại cũng như vậy.

“Anan, câu chuyện mơ chua như thế chẳng từ trái mơ mà sanh ra, chẳng phải do cái miệng mà vào. Thật vậy, Anan, nếu do quả mơ sanh ra thì trái mơ tự nói lấy, nào phải chờ đến người nói? Nếu do cái miệng mà vào thì cái miệng tự nghe lấy, cần gì đến lỗ tai! Nếu chỉ có lỗ tai nghe, thì nước miếng kia sao không từ lỗ tai chảy ra! Chuyện nghĩ đến đang đứng trên vực núi lại cũng như vậy.

“Vậy, nên biết rằng: Tưởng Ấmhư vọng, vốn chẳng phải tính Nhân Duyên, chẳng phải tính Tự Nhiên.

Thông rằng: Tư tưởng vốn không có thật tướng, do tâm mà thành có tướng, nên gọi là Tưởng. Nghĩ tưởng đến trái mơ chua thì chảy nước miếng. Nghĩ tưởng đến vực cao thì cảm thấy lòng bàn chân rợn rợn. Trái mơ nào có miệng, chỉ có nói đến thôi, thì nước miếng do đâu mà tới? Nên có là do Tưởng vậy. Lại nữa, trong mộng mà nói đến trái mơ chua, người nói chẳng phải là người thật, cái Nghe lại chẳng phải lỗ tai, thì nước miếng do đâu mà tới, đó là kết quả của Tưởng vậy. Nếu cái Tưởng này là tánh Nhân Duyên thì chắc là không thể ngoài trái mơ chua và miệng mà có. Nay việc nói chẳng phải là từ quả mơ, việc nghe chẳng do miệng, lỗ tai lại chẳng chảy nước miếng, mà trong miệng lại có nước sanh ra, thì rõ ràng không phải là Nhân Duyên.

Nếu cái Tưởng này là tánh Tự Nhiên, thì khi nói trái mơ chua lẽ ra lòng bàn chân phải thấy rờn rợn, nói đứng trên vực thẳm thì lẽ ra nước miếng chảy ra. Mà nay mỗi thứ đều tùy theo chủng tử, tập khí, chẳng phải không lý dotự nhiên có, nên rõ ràng là không phải Tự Nhiên.

Chẳng phải là Nhân Duyên, chẳng phải là Tự Nhiên, ngay đang lúc Tưởng, tức là Vô Tưởng, Như Như, một Tánh Nhiệm Mầu vậy.

Có một vị đạo sĩ hỏi Tổ Vạn Tùng: “Kẻ đệ tử này hơn ba mươi năm trừ dẹp vọng tâm mà không xong!”

Tổ Tùng nói: “Tôi có bốn câu hỏi đưa ra để tỏ cái Toàn Chân:

“Câu hỏi thứ nhất: Vọng tâm đã có từ lâu mau rồi?

“Câu hỏi thứ hai: Xưa nay vốn có Vọng Tâm không?

“Câu hỏi thứ ba: Vọng tâm làm sao mà đoạn?

“Câu hỏi thứ tư: “Vọng tâm đoạn là phải hay không đoạn là phải?”

Vị tăng lạy tạ rồi đi.

Ngài Hoàng Sơn Triệu Văn Nhụ thân cận Viên Thông quốc sư, từng có bài tụng:

“Vọng tưởng xưa nay vốn là Chân

Khi trừ lại dấy một lớp trần

Nói, suy, động, tĩnh nhờ gì đó?

Kỹ lưỡng mà xem, ai khác đâu”.

(Vọng Tưởng nguyên lai bổn tự Chơn

Trừ thời hựu khởi nhất trùng trần

Ngôn, tư, động, tĩnh thừa thùy lực

Từ tế khán lai vô biệt nhơn).

Thuở Phật còn tại thế, có ba người anh em nghe ở nước Tỳ Da Ly có người dâm nữ tên là Am La Bà Li. Lại nghe ở nước Xá Vệ có người dâm nữTu Mạn Na, lại nghe ở thành Vương Xá có người dâm nữ tên là Ưu Bát La Bàn Na. Tất cả đều tuyệt sắc. Ngày đêm nhớ nghĩ, mới mộng thấy cùng các nàng đó ân ái. Đến khi tỉnh dậy, nhớ lại mới nghĩ rằng: “Người nữ chẳng tới, ta cũng không đi, mà chuyện dâm đã thành đầy đủ”.

Nhân đó mà tỏ ngộ tất cả các pháp đều như thế cả, do đó đốn chứng Duy Tâm.

Ôi! Như ba người ấy đáng gọi là tỏ suốt được sự hư vọng của Tưởng Ấm. Đốn chứng Duy Tâm chẳng phải là đã thấy Tánh Diệu Chân Như sao?

D. THU HÀNH ẤM

Kinh: “Anan, ví như dòng nước chảy xiết, sóng mòi nối nhau, lớp trước lớp sau, không vượt khỏi nhau. Nên biết Hành ấm lại cũng như thế.

“Anan, Tánh Chảy như vậy không nhân hư không mà sanh, không nhân nước mà có, cũng không phải tánh nước, cũng không rời hư không và nước. Thật vậy, Anan, nếu nhân hư không mà sanh, thì mười phương hư không vô tận thành ra dòng nước chảy vô tận, thế thì thế giới đều bị chìm đắm cả. Nếu nhân nước mà có, thì dòng chảy ấy bản tánh lẽ ra không phải là nước nữa và hiện nay đã có thể chỉ ra tướng của dòng chảy và tướng của nước khác nhau. Nếu Tánh Chảy tức là Tánh Nước, thì khi nước đứng lại, lẽ ra không phải là nước nữa. Nếu Tánh Chảy rời hư không và nước mà có, thì không thể có cái gì ở ngoài hư không cả, và ở ngoài nước không thể có dòng nước.

“Vậy nên biết rằng: Hành Ấm hư vọng, vốn không phải Tánh Nhân Duyên, không phải Tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Thức A Đà Na [Thức A Lại Da, Thức Thứ Tám] vi tế, tập khí hiện hành như dòng nước chảy xiết, tưởng chừng là đứng yên, gọi là Thức Thứ Tám. Gắn dính cái vọng động vào Tánh trong lặng, niệm niệm đổi dời, biến đổi chẳng hề ngừng nghỉ, gọi là Thức Thứ Bảy, đó là Hành Ấm. Hành Ấm [Cái Thức thi hành âm thầm] giống như dòng nước chảy xiết, theo Cảnh mà đổi dời. Nhưng cái dòng chảy đó, không phải từ Cảnh mà sanh, không phải từ Tâm mà sanh, chẳng phải tức là Tâm Cảnh, chẳng phải lìa ngoài Tâm Cảnh. Tất cả bởi vì Thức Thứ Bảy ở trong dựa vào Thức Thứ Tám, ngoài thì nương theo Thức Thứ Sáu, vốn không có tự tánh khá được. Đã vô tự tánh, tức là hư vọng vậy.

Nói dòng nước chẳng phải từ hư không sanh ra thì còn dễ hiểu, nhưng nói “Dòng nước chẳng phải từ nước mà có” thì khó biện ra. Cái Năng Hữu [Cái Có] là nước, cái Sở Hữu [Được Có] là dòng nước chảy. Cũng như cây sanh ra trái, thì trái chẳng phải là cây, rõ ràng có thể chỉ ra là cây khác trái. Thế mà dòng nước chảy và nước, hai tướng ấy không thể riêng ra mà tự có, thì tức là dòng nước không phải do nước mà riêng có, đã rõ ràng vậy. Dòng nước chảy chẳng phải tức là hư không hay nước, nghĩa là không phải Nhân Duyên. Chẳng lìa ngoài hư không và nước, tức chẳng phải Tự Nhiên. Chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên thì đương nhiên là hư vọng. Thấu suốt được là hư vọng, hiện giờ vốn tự Vô Sanh, đó là Tánh Diệu Chân Như.

Kinh Lăng Già nói “Có tướng thì sanh chấp ngại, có tưởng thì sanh vọng tưởng. Sự trôi chảy (lưu chú) sanh thì theo vọng mà trôi lăn. Nếu đến được Vô Công Dụng Địa thì vẫn còn trong tướng lưu chú. Cần phải vượt ra được cái sanh tướng lưu chú thứ ba, mới là tự tại khoái hoạt”.

Có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu: “Trẻ nhỏ sơ sanh có đủ sáu Thức hay không?”

Tổ Châu nói: “Trên dòng nước xiết, đánh cầu”.

Vị tăng lại hỏi Tổ Đầu Tư: “Trên dòng nước xiết đánh cầu, ý chỉ thế nào?”

Tổ Đầu Tử đáp: “Niệm niệm chẳng dừng”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Sáu Thức vô công, hỏi một câu

Tác gia [Tiếng xưng hô của thiền tông, chỉ kẻ thật có chỗ then chốt. Nghiã là tông sư; như Triệu Châu gọi là tác gia] chung sức biện mối đầu

Mênh mông chảy xiết: cầu vẫn đánh

Chỗ ấy chẳng ngừng, ai biết xem?”.

(Lục Thức vô công thân nhất vấn

Tác gia tầng vọng biện lai đoan

Mang mang cấp xuất đả cầu tử

Lạc xứ bất đình thùy giải khán).

Đây là hoạt cú của Ngài Tuyết Đậu. Thử nói bài tụng đến vào chỗ nào? Nếu nhìn thấy được mới tin nổi Hành Ấm tức là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.

E. THU THỨC ẤM

Kinh: “Anan, ví như có người lấy bình tần già [Bình giống hình chim Tần Già (Kalavinka - Ca lăng tần già). Phật dùng làm thí dụ không có sự qua lại của cái không, không có sự sống chết của cái thức (tâm thức hay uẩn thức).] bịt cả hai lỗ, rồi vác cái bình đầy hư không đi xa ngàn dặm đem cho nước khác. Nên biết rằng Thức Ấm cũng lại như thế.

“Anan, cái hư không ấy không phải đến từ phương kia, cũng không phải nhập vào phương này. Thật vậy, Anan, nếu đến từ phương kia, thì trong cái bình đã đựng hư không đem đi, ở phương kia lẽ ra phải thiếu một bình hư không! Nếu đưa vào phương này thì khi mở miệng bình trút ra, lẽ ra phải thấy hư không ra!

“Vậy, nên biết rằng: Thức Ấm hư vọng, vốn không phải tánh Nhân Duyên, không phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Bộ Tông Cảnh Lục nói “Nếu chấp là có Thức, theo thân mà qua lại, nơi này Thức Ấm diệt, qua nơi kia Thức Ấm sanh thì cũng giống như đem hư không của xứ này qua cho xứ khác ở xa. Nếu ở nơi này Thức Ấm thật diệt mất, thì chỗ này phải thiếu hư không. Nếu ở nơi kia Thức Ấm lại sanh ra, thì khi mở nắp đổ bình, phải thấy hư không chảy ra. Bởi thế nên biết rằng: hư không bất động, Thức không đến-đi, Thức Ấmhư vọng vậy.

Tổ Ôn Lăng nói: “Cái Tánh Không Chơn Giác cùng khắp pháp giới một khi đã mê thì là Thức, Thức cũng như hư không ở trong bình. Trong ngoài đều là một hư không: ví dụ cho Tánh và Thức vốn là một Thể. Bịt cả hai đầu: ví dụ cho hư vọng phân ra là Đồng, là Khác. Hư không không có sự đến-đi: ví dụ cho Tánh không có sanh, không có diệt. Cái bình: ví dụ cho cái nghiệp hư vọng. Hư không trong bình: ví dụ cho Thức hư vọng. Nghiệp mang Thức đi, như cái bình mang hư không. Đi qua nước khác: ví dụ cho sự luân chuyển hư vọng trong sáu nẻo luân hồi”.

Kinh Pháp Cú nói: “Cái tinh thần ở trong hình hài như con chim sẻ nhốt trong bình. Bình vỡ thì chim bay mất”.

Cái bình tần già này cũng giống như hình hài, hai ý giống nhau.

Quan Đại Phu Lục Tuyên hỏi Tổ Nam Tuyền: “Người xưa có nuôi trong bình một con chim, dần dần lớn lên, không ra khỏi bình được. Nay nếu không được hủy bình, không được làm hư hao chim, làm sao ra được?”

Tổ Nam Tuyền kêu lớn: “Đại Phu!”

Ông Lục Tuyên ứng tiếng dạ.

Tổ Tuyền nói: “Ra rồi vậy”.

Ông Lục Tuyên do chỗ đó mở tỏ, bèn lạy tạ.

Một hôm, lại hỏi Tổ Nam Tuyền: “Đệ tử theo Lục Hợp mà đến, trong ấy lại còn có thân chăng?”

Tổ Tuyền nói: “Phân minh nhớ giữ, cử động tựa chủ nhân”.

Ông Lục Tuyên nói: “Hòa Thượng thật không thể nghĩ bàn, đến chỗ nào thế giới thành tựu chỗ đó”.

Tổ Tuyền nói: “Thật ra, đều là chuyện của phần ông đó!”

Hòa Thượng Báo Ân Minh hỏi hai vị thiền khách: “Thủ Tòa vừa rời chỗ nào?”

Đáp: “Kinh đô”.

Tổ Minh nói: “Thượng Tọa rời kinh đô đến núi này, thì kinh đô thiếu Thượng Tọa mà núi này dư Thượng Tọa! Dư tức là ngoài tâm có pháp; thiếu thì tâm, pháp chẳng cùng khắp! Nói được lý đạo thì nên ở, chẳng hiểu thì nên đi”.

Hai vị này không đáp được.

Như thiền sư Thiên Y Hoài, chỗ thấy tự rành rẽ. Tổ Thiên Y đến ngọn núi Sam, được mời vào chùa, thượng đường nói : “Suốt hai mươi năm mến mộ núi này, hôm nay mừng đã đến được, quả là đầy đủ nhân duyên. Sơn tăng chưa đến núi này mà thân đã đến trước. Kịp tới khi đến đây, thì núi Sam đã ở trong thân của sơn tăng”.

Ở chỗ này mà mỗi mỗi đều thấu triệt, mới tin Thức Ấmhư vọng, vốn chẳng hề có đến, có đi. Như bọt nước sanh ra, diệt mất, không lìa ngoài biển cả. Bọt nước là biển cả, thì Thức lại chẳng phải là Tánh Diệu Chân Như đó ư?

F. THU SÁU NHẬP

Kinh: “Lại nữa, Anan, như sao là Lục Nhập vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh?

Thông rằng: Lục Nhập cũng gọi là Lục Xứ, là cái chỗ để cho Cảnh do đó mà Nhập vào vậy. Ở đây chỉ lấy Căn làm Nhập. Lục Căn sao lại là Diệu Chân Như Tánh? Chẳng phải là “Một Căn đã trở về nguồn thì sáu Căn đều thành Giải Thoát” sao? Bởi thế, sáu Căn tức đó là Phật Tánh vậy.

Vua Dị Kiến hỏi tôn giả Ba La Đề : “Cái gì là Phật?”

Tổ đáp : “Thấy Tánh là Phật”.

Vua hỏi : “Thầy thấy Tánh chăng?”

Tổ đáp : “Tôi thấy Phật Tánh”.

Vua hỏi : “Cái Tánh ở chỗ nào?”

Tổ nói : “Tánh ở trong tác dụng”.

Vua hỏi : “Ấy là tác dụng nào mà tôi không thấy?”

Tổ nói : “Nay hiện là tác dụng mà vua tự chẳng thấy”.

Vua hỏi : “Hiện nơi tôi có chăng?”

Tổ nói : “Vua mà tác dụng thì không có gì chẳng phải là đó; vua mà chẳng dùng, Thể ấy khó thấy”.

Vua hỏi : “Như khi đang dùng thì xuất hiện mấy chỗ?”

Tổ đáp : “Như khi xuất hiện thì hiện có tám chỗ”.

Vua nói : “Xin vì tôi nói ra tám chỗ xuất hiện ấy”.

Tổ Ba La Đề nói bài kệ:

“Ở thai làm Thân

Ở đời làm Người

Ở mắt là Thấy

Ở tai là Nghe

Ở mũi Ngửi mùi

Ở miệng Đàm Luận

Ở tay Cầm Nắm

Ở chân Đi Chạy

Hiện khắp đồng đều pháp giới

Thâu lại trong một vi trần

Tỏ hiểu, biết đó là Phật Tánh

Không hiểu, lại gọi là tinh hồn”.

Vua nghe xong bài kệ, tâm liền khai ngộ.

Ông Trình Minh Đạo đọc Trung Dung có câu thơ “Diều bay tận trời. Cá nhảy trong vực”, nói rằng “Trên dưới đều rõ ràng vậy”. Đây là Ông Tử Tư quả là vì người mà gắng sức. Biết được thì đời sống quá đổi tự do. Chẳng biết, thì chỉ là “Đùa giỡn với tinh hồn”. Những lời nói ấy, người học vẫn thường nghe. Vì sao vua Dị Kiến lại tỏ ngộ, nhỉ?

Thiền sư Phật Nhật Tài thượng đường: “Gió mưa tiêu điều lấp kín Tai ông! Lá rụng lại qua lấp kín Mắt ông! Hương mùi loạn xạ lấp kín Mũi ông! Lạnh nóng, ngọt bùi lấp kín Lưỡi ông! Áo gấm ấm mát lấp kín Thân ông! Vọng tưởng điên đảo lấp kíp ý ông! Này chư vị thiền đức, cho dù các ông có lật lại được chăng nữa thì cũng là đống xương đất bằng! Tham!”

Chỗ này chẳng tham thì không được!

Kinh: “Anan, tức nơi tròng mắt kia, ngó sững sanh ra mỏi lòa. Cả hai cái: con mắt và sự mỏi lòa đều là cái tướng sinh mỏi lòa do nhìn chăm chăm của Bồ Đề.

“Nhân nơi hai thứ vọng trần sáng và tối phát ra cái Thấy ở bên trong, thu nạp các trần tướng mà gọi là cái Thấy. Cái Thấy này rời ngoài hai Trần sáng và tối, rốt ráo không có tự thể.

“Thật vậy, Anan, phải biết rằng cái Thấy đó chẳng phải từ nơi sáng, nơi tối mà đến, chẳng phải từ căn mắt mà ra, chẳng phải từ hư không mà sanh. Vì sao thế? Nếu từ cái sáng mà đến, thì khi tối đã theo cái sáng mà diệt, lẽ ra không thấy được cái tối ! Nếu từ cái tối mà đến thì khi sáng phải theo cái tối mà diệt, lẽ ra không thấy được cái sáng! Nếu do căn mắt mà sanh, hẳn không có sáng, có tối thì cái Thấy như vậy vốn không tự tánh. Nếu do hư không mà ra thì ngó tới trước phải thấy các trần tượng, quay về phải thấy con mắt! Lại nữa, hư không mà tự thấy nào có liên quan gì đến chỗ thâu nhập của ông.

“Thế nên, phải biết Nhãn Nhậphư vọng, vốn chẳng phải tính Nhân Duyên, chẳng phải tính Tự Nhiên.

Thông rằng: Ngó sững chặp lâu thì mắt mỏi mà phát lòa, nên thấy hoa đốm loạn xạ, cái căn mắt phân biệt cũng là cái tướng lòa ở trong Giác Tánh Bồ Đề, nên nói “Cả con mắt và cái lòa đều là cái tướng mỏi sanh ra lòa của Bồ Đề”. Mượn con mắt lòa tạo thành sắc ấm để ví dụ là Nhãn Nhập hư vọng vậy. Nếu mắt chẳng mỏi, tướng lòa tự là không, nguyên một Tinh Minh lấy đâu mà vọng? Cái Thấy này lìa ngoài hai trần sáng, tối rốt ráo không tự thể. Rõ ràng hiển bày cái Chân Kiếân Vô Sanh, chẳng vì thấy sáng, thấy tối mà có, chẳng vì lìa sáng, tối mà không. Chân KiếnChân Thật, còn cái Thấy này là hư vọng, có thể thấy rõ ràng vậy.

Đoạn trước nói “Hoa đốm chẳng phải từ hư không sanh, chẳng từ con mắt sanh ra” chỉ thẳng sắc ấm vốn không. Ở đoạn này, nói “Tánh Thấy chẳng từ hư không sanh cũng chẳng do con mắt sanh ra” để chỉ bày Nhãn Nhậphư vọng. Vọng vốn không tự tánh, Đương Thể tức Chân. Nên nói “Tức là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh” vậy.

Tổ Triệu Châu nói: “Cầm chắc Càn Khôn Nhãn, làu làu chẳng lọt mảy lông. Mong ông hiểu thấu, ông lại làm gì nữa?”

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Trở lại đầu mối được chưa? Dù cho ông ở trong ấy hiểu được bảy lỗ, tám hang đi nữa, ta cũng biết ông chẳng ra khỏi cái nôi mây kết trói của Tổ Triệu Châu đâu!”

Lại có nhà sư hỏi Tổ Cửu Phong Kiền: “Như thế nào là con Mắt Càn Khôn?”

Tổ Phong nói : “Càn Khôn ở trong ấy!”

Nhà sư hỏi : “Con Mắt Càn Khôn ở đâu?”

Tổ Phong nói : “Chánh đó là con Mắt Càn Khôn”.

Sư hỏi : “Lại có chiếu sáng không?”

Tổ Phong nói : “Chẳng nhờ đến thế lực của ba loại ánh sáng”.

Sư hỏi: “Đã chẳng nhờ sức của ba loại ánh sáng thì nhờ vào đâu mà chiếu sáng, mà gọi là con Mắt Càn Khôn?”

Tổ Phong nói: “Nếu chẳng như thế thì trước sọ khô thấy quỷ ma vô số!”

Hợp hai tắc này lại mà xem xét, nếu mà có nương nhờ thì đó chính là chỗ rỉ giọt [Sấm lậu], cho dù có hiểu được cũng là trước mắt thấy quỉ. Chỉ nơi một câu “Con Mắt Càn Khôn ở tại chỗ nào?” mà trộm thấy suốt được thì mới nắm chắc. Tướng mỏi sanh lòa từ chỗ nào mà khởi ra thế?

Kinh: “Anan, ví như có người lấy hai ngón tay bịt chặt lỗ tai, do căn tai mỏi, trong đầu hóa ra có tiếng. Cả hai cái: lỗ tai và cái mỏi mệt, đều là tướng lâu mà sanh ù mỏi của Bồ Đề.

“Nhân nơi hai thứ vọng trần động và tĩnh phát ra cái Nghe ở trong, thu nạp cái trần tượng đó mà gọi là cái Nghe. Cái Nghe đó rời hai trần động tĩnh rốt ráo không có tự thể.

“Thật vậy, Anan, ông nên biết cái Nghe đó không phải từ nơi động, nơi tĩnh mà đến, không phải từ lỗ tai mà ra, không phải nơi hư không mà sanh. Tại sao thế? Nếu cái Nghe ấy từ nơi tĩnh mà đến thì khi động phải theo cái tĩnh mà diệt, lẽ ra không nghe được cái động. Nếu từ nơi động mà đến thì khi tĩnh sẽ theo cái động mà diệt, lẽ ra không nghe thấy cái tĩnh. Nếu do lỗ tai mà sanh, hẳn là không có động, không có tĩnh, thì cái Nghe như vậy vốn không có tự tánh. Nếu do hư không mà ra, thì đã có tánh nghe, chắc không phải là hư không nữa. Lại nữa, hư không mà tự nghe nào có liên quan gì đến chỗ thâu nhập của ông?

“Vậy, nên biết rằng Nhĩ Nhậphư vọng, vốn chẳng phải tánh Tự Nhiên, chẳng phải tánh Nhân Duyên.

Thông rằng: Từ Nhãn Nhập đến Ý Nhập đều như hoa không, nên nói “Đều là cái tướng mỏi mệt sanh ra của Bồ Đề”. Căn Tai mỏi ù, thì trong đầu có ra tiếng. Giác Tánh Bồ Đề phát sanh mỏi, ắt trong tai thành có cái Nghe. Cái Nghe này hư vọng mà sanh ra, cũng như hoa không vậy. Cái Nghe này rời hai vọng trần động và tĩnh thì rốt ráo không có tự thể. Trần đến thì có, trần đi thì không. Cái Nghe ấy vốn không gốc gác nên gọi là hư vọng. Cái Nghe hay phân biệt được động, tĩnh nên chẳng từ cảnh mà sanh. Cái Nghe thật linh mẫn, còn hư không thì trơ trơ, nên chẳng phải từ hư không mà ra. Như cái Thể Nghe của Nhĩ Căn, mỗi mỗi đều có mặt, sao lại nói là không tự tánh? Vì lìa ngoài tiền trần ắt là vô phân biệt. Nếu có phân biệt, đáng lẽ phải chỉ ra được. Nay không thể chỉ ra, thì biết là không tự tánh. Nghiệm xét cái Nghe ở nơi cảnh, ở nơi căn, ở nơi hư không đều không có cái Thể nhất định để tìm ra được, tức là cái Nghe hư huyễn này vốn chẳng phải tính Nhân Duyên, chẳng phải tính Tự Nhiên, bèn là tức huyễn tức chơn vậy. Nếu mà có Nhân Duyên hay Tự Nhiên khá được thì cái Nghe ấy bèn là pháp sanh diệt, sao có thể gọi đó là Diệu Chân Như Tánh?

Có vị tăng hỏi Ngài Huyền Sa: “Nhờ Hòa Thượng dạy “Cái Tánh Nghe cùng khắp pháp giới”. Ngài Tuyết Phong đánh trống ở trong ấy vì sao chẳng nghe?”

Tổ Sa nói: “Ai biết chẳng nghe?”

Lại có vị tăng hỏi Tổ Tào Sơn: “Gần bạn đạo nào để được hằng nghe chỗ chưa nghe?”

Tổ Sơn nói: “Cùng chung nhau một cái trùm che khắp hết”.

Hỏi: “Cái này cũng như là Hòa Thượng được nghe. Như sao là hằng nghe ở chỗ chưa nghe?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng đồng với gỗ đá”.

Hỏi: “Cái nào là trước, cái nào là sau?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng thấy nói “Hằng nghe ở chỗ chưa nghe” sao?”

Thế mới biết, hằng nghe ở chỗ chưa nghe thì cái Nghe này cùng khắp vậy.

Kinh: “Anan, ví như có người bịt gấp hai lỗ mũi. Bịt lâu thành ra mỏi mệt, thì ở trong mũi nghe có cảm giác lạnh. Nhân những cảm xúc như vậy mà phân biệt được là thông, là bít, là rỗng, là đặc cho đến các mùi thơm, thối. Cả hai cái: Ngửi và cái mỏi mệt, đều là cái tướng bịt lâu phát mỏi của Bồ Đề.

“Nhân nơi hai thứ vọng trần thông và bít phát ra cái Ngửi ở trong, thu nạp các trần tượng mà gọi là cái Ngửi. Cái Ngửi đó rời ngoài hai trần thông và bít rốt ráo không có tự thể. Thế nên, phải biết cái Ngửi ấy chẳng phải từ thông, bít mà đến, chẳng phải nơi căn mà ra, chẳng từ hư không mà phát sanh. Tại sao thế? Nếu từ cái thông mà đến thì khi bít, cái Ngửi đã mất rồi làm sao mà biết được cái bít? Nếu nhân cái bít mà có thì khi thông, không còn cái Ngửi làm sao biết được các mùi thơm, thối? Nếu từ lỗ mũi sanh ra hẳn không có cái thông, cái bít thì cái Ngửi như vậy vốn không tự tánh. Nếu do hư không mà ra thì cái Ngửi đó phải xoay lại ngửi được lỗ mũi của ông! Lại nữa, hư không mà tự ngửi được nào có liên quan gì đến chỗ thâu nhập của ông?

“Vậy, nên biết rằng Tỷ Nhậphư vọng, vốn chẳng phải là tánh Nhân Duyên, chẳng phải là tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Bịt mũi là bịt ngừng hơi thở, khí không ra vào. Cái lạnh nhân nín thở mà có, không nín thì không có. Nhân nín thở mà biết có thông, bít, rỗng, đặc. Nhân thông, bít mà phân biệt các mùi thơm, thối. Cái Ngửi đó, rõ ràng nhân hư vọng mà có vậy. Như chẳng có cái thông, bít, cái Ngửi thấy đó hiện đang ở chỗ nào ? Ở tai thì gọi là cái Nghe thấy, ở mũi thì gọi là cái Ngửi thấy. Công năng lớn nhỏ có thể thấy được. Cái Nghe thì đâu cũng khắp, cái Ngửi thì phát ra do tiếp xúc với tiền trần. Tuy nhiên, căn mũi là hư vọng, vốn không có chỗ chỉ ra được, huống là cái việc hướng thượng nằm ngay trên mũi mình, lại càng khó sờ nắm!

Có vị tăng hỏi thiền sư Hải Yến ở chùa Chửng Mê rằng: “Như thế nào là chùa xưa một lư hương?”

Tổ nói: “Qua nhiều đời không có người ngửi”.

Hỏi: “Người ngửi như thế nào?”

Tổ nói: “Sáu Căn đều chẳng đến”.

Ngài Ba Lăng Giám [Tổ Hạo Giám tại Ba Lăng, Nhạc Châu. Người nối kế chánh pháp của Tổ Vân Môn] ban đầu ra mắt Tổ Vân Môn.

Tổ Vân Môn nói : “Hòa Thượng Tuyết Phong nói “Mở cửa ra thì Đạt Ma đến”, tôi hỏi ông làm sao đây?”

Ngài Giám nói: “Ở trên lỗ mũi Hòa Thượng!”

Tổ Môn nói: “Địa Thần nổi dữ, cầm núi Tu Di đập một cái, nhảy tót lên trời Phạm Thiên, bứt phá lỗ mũi của Đế Thích. Ông vì sao mà hướng về trong nước Nhật Bản ẩn mình?”

Ngài Giám nói: “Hòa Thượng không lừa dối người thì tốt”.

Tổ Môn nói: “Ở trên lỗ mũi của lão tăng, lại làm sao?”

Ngài Giám không có lời đáp. Tổ Môn nói: “Hãy biết ông chỉ là phường “Học nói”.

Nếu tham suốt được lời nói của Tổ Vân Môn thì thật như nửa đêm rờ trúng lỗ mũi, xưa nay chỉ ở trên mặt!

Kinh: “Anan, ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sanh ra mỏi. Nếu người đó đang bệnh thì thấy có vị đắng, còn người không bệnh thì có chút vị ngọt. Do cảm xúc ngọt, đắng mà hiện ra có căn lưỡi, khi không động thì vẫn có tánh nhạt. Cả cái Nếm cùng cái Mỏi đều là cái tướng lâu mà sanh mỏi của Bồ Đề.

“Nhân hai thứ vọng trần nhạt và ngọt đắng phát ra cái Nếm ở bên trong, thu nạp các trần tượng đó mà gọi là cái Nếm Biết. Cái Nếm Biết này ngoài hai vọng trần nhạt và ngọt đắng kia, rốt ráo không có tự thể.

“Thật vậy, Anan, phải biết rằng cái Nếm Biết được đắng, nhạt như vậy không phải từ ngọt đắng mà đến, không phải nhân tánh nhạt mà có, cũng không từ căn lưỡi mà ra, cũng không từ hư không mà sanh. Vì sao thế?

“Nếu từ các vị ngọt, đắng mà đến thì khi nhạt, cái Nếm Biết đã diệt mất làm sao biết được vị nhạt? Nếu từ cái nhạt mà ra, thì khi ngọt, cái Nếm Biết đã mất rồi làm sao biết được vị ngọt đắng? Nếu do cái Lưỡi sanh ra, hẳn không có những vị ngọt, đắng và nhạt, thì cái Căn Biết Mùi Vị đó rõ là vốn không tự tánh. Nếu do hư không mà ra thì hư không tự nếm biết, chẳng phải lưỡi ông biết được vị. Hơn nữa, hư không mà tự biết thì có liên quan gì đến chỗ thâu nhập của ông đâu?

“Vậy, nên biết rằng, Thiệt Nhập là hư vọng, vốn chẳng phải là tánh Nhân Duyên, chẳng phải là tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Cái Căn biết Mùi đây, biết ngọt, biết đắng, biết nhạt. Vị ngọt, đắng, nhạt không thường còn nên cái Căn Nếm Biết cũng tùy theo mà thay đổi. Cái Biết Vị này không phải từ ngọt, đắng, nhạt mà đến, không phải từ hư không mà ra thì còn dễ biết, nhưng tại sao không từ lưỡi mà sanh? Cái lưỡi vốn không mùi vị, nên không có tự tánh khá được. Chỉ do tiếp xúc với mùi vị mà nếm biết sanh ra, mùi vị hết thì phải diệt, vốn đều là hư vọng. Bám chấp mà cho là có thì không biết nó ở đâu ra! Bám chấp mà cho là không thì lại rõ ràng ra đó! Cho nên mới nói là Diệu. Ở đây mà chẳng biết mùi vị là cái gì thì không có đủ sức để bàn luận vậy.

Ngài Sam Sơn đang lựa rau quyết, Tổ Nam Tuyền nhặt lên một cọng, nói: “Cái này dùng rất tốt”.

Ngài Sơn nói: “Không những cái này mà món ngon trăm vị hắn ta cũng chẳng thèm đoái tới”.

Tổ Tuyền nói: “Tuy là như thế, mỗi cái phải nên nếm qua mới được”.

Ngài Huyền Giác nói rằng: “Đó là lời tương kiến hay không phải là lời tương kiến?”.

Ngài Thiên Đồng nói: “Hỏi lấy Nam Tuyền Vương Lão Sư, ai ai cũng chỉ ăn một cọng rau”.

Có thể nói là biết mùi vị vậy.

Kinh: “Anan, ví như có người dùng bàn tay lạnh rờ bàn tay nóng. Nếu bên lạnh nhiều hơn thì bên nóng lạnh theo. Nếu bên nóng nhiều hơn thì bên lạnh thành nóng lên. Như vậy, do cảm xúc nhận biết trong lúc hợp lại mà rõ sự nhận biết lúc rời ra. Cái thế chênh lệch giữa nóng và lạnh này thành là do mỏi mệt mà có ra cảm xúc. Cả hai thứ: Thân biết cảm xúc và cái Mỏi đều là cái tướng sanh mỏi do chăm chú của Bồ Đề.

“Nhân nơi hai thứ vọng trần lìa và hợp phát ra cái Hay Biết ở bên trong, thu nạp các trần tượng đó mà gọi là cái Biết Cảm Xúc. Cái Biết như vậy lìa ngoài hai trần lìa và hợp, trái và thuận kia, rốt ráo không có tự thể.

“Thật vậy, Anan, phải biết rằng cái Cảm Xúc đó không phải từ cái lìa, cái hợp mà tới, không phải từ nghịch thuận mà có, chẳng phải do nơi thân căn mà ra, cũng không phải do hư không mà sanh ra. Vì sao thế?

“Nếu từ hợp mà đến, thì khi lìa, cái biết đã mất rồi, làm sao biết được cái lìa. Đối với hai tướng nghịch thuận thì cũng như thế. Nếu từ thân căn mà có ra, hẳn không có những tướng lìa, hợp, nghịch, thuận thì cái Biết Cảm Xúc của thân vốn không có tự tánh. Nếu từ hư không mà sanh ra thì hư không tự biết lấy, nào có liên quan gì đến chỗ thâu nhập của ông?

“Thế nên, phải biết Thân Nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng : Cái Biết do hợp lại mà có thì khi lìa ra bèn không có. Nhưng lìa ra rồi mới biết Cảm Xúc là Thuận hay Nghịch. Cái Biết do đụng chạm với thân này, hơi khác với cái Biết ở lưỡi. Tùy theo cái thế tương quan mà có hơn thua. Ví như cái nóng chạm cái lạnh, mà nóng mạnh hơn, thì cái lạnh nóng lên và ngược lại. Lạnh và nóng can thiệp nhau, hai tướng thành ra, chẳng có cái cảm xúc mỏi nhọc thì chẳng có việc nóng lạnh ấy. Cảm xúc dễ chịu thì nói là thuận, cảm xúc nghịch với thân thì gọi là trái nghịch. Nếu không có bốn tướng: lìa, hợp, thuận, nghịch, chỉ còn mỗi cái thân thì cái Biết Cảm Xúc này ở tại nơi nào? Cho nên mới nói vốn là không tự tánh. Tức là cái Biết của thân này không do trần mà sanh, không do căn thân mà có ra, hẳn chẳng phải phân biệt mà biết. Không phải từ hư không mà sanh ra, hẳn chẳng phải là Tự Nhiên. Chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, gọi đó là Diệu Chân Như Tánh. Cái chuyện Thấy, Nghe, Hay, Biết ở trên là năm cái Thức bên ngoài, do đối với Cảnh mà biết, chẳng phải là cái Biết của ý thức phân biệt. Tất cả đều là chỗ bày biện của Như Lai Tạng Tánh vậy.

nhà sư hỏi Tổ Động Sơn: “Lạnh, nóng đến làm sao mà trốn tránh?”

Tổ Động Sơn nói: “Sao chẳng ở trong chỗ không nóng lạnh?”

Hỏi: “Như thế nào là chỗ không hề nóng lạnh?”

Tổ Sơn nói: “Lạnh thì lạnh chết Xà Lê, nóng thì nóng chết Xà Lê!”

Lại Tổ Tào Sơn hỏi một nhà sư: “Nóng như thế này, hướng về chỗ nào trốn tránh?”

Sư đáp : “Trốn vào trong vạc nước sôi, lò lửa!”

Tổ hỏi : “Trong vạc nước sôi, lò lửa làm sao trốn tránh?”

Sư đáp : “Các khổ không thể đến!”

Đây là những lời trong nhà, như ra từ một miệng.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Buông tay lại đồng vách núi muôn tầm

Chánh, Thiên nào cần đến việc an bài

Cổ điện lưu ly trăng chiếu sáng

Nực cười binh mạnh bắc thang lên không!”.

(Thùy thủ hoàn đồng vạn nhận nhai

Chánh Thiên hà tất tại an bài

Lưu ly cổ điện chiếu minh nguyệt

Nhẫn tuấn hàn lư không thượng giai).

Rõ được ý này thì Thõng tay vào chợ cũng đồng là Núi cô riêng đứng một mình [Tự do, Giải thoát]. Về nguồn rõ Tánh và Sai Biệt Trí đều chẳng khác nhau. Chẳng khế hợp sâu xa với Tông Tào Động, chưa dễ nói được chỗ này.

Kinh: “Ví như có người mỏi mệt thì ngủ. Ngủ chán thì thức dậy. Xem trần cảnh thì nhớ, hết nhớ thì quên. Các thứ Sanh, Trụ, Dị, Diệt điên đảo này hấp thu những kết tập thói quen đưa vào bên trong, mỗi mỗi liên tục, gọi đó là Ý Căn. Cả hai cái : Ý và Mỏi Mệt, đều là tướng phát mỏi do chăm chú của Bồ Đề.

“Nhân hai thứ vọng trần sanh và diệt kết tập cái Biết ở bên trong, thu nhóm nội trần, dùng thấy, nghe chảy ngược vào trong, chảy không chỗ đến, mà gọi là cái Ý Hay Biết. Cái Ý Hay Biết này rời ngoài hai trần thức và ngủ, sanh và diệt rốt ráo là không có tự thể.

“Thật vậy, Anan, nên biết rằng cái Căn Hay Biết đó chẳng từ thức hay ngủ mà đến, chẳng phải từ sanh diệt mà có, chẳng phải nơi căn ý mà có ra, cũng chẳng phải hư không sanh. Tại sao thế?

“Nếu từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức diệt mất, lấy gì để thành ra cái ngủ mê? Nếu quả là lúc sanh mới có, thì lúc diệt đã không còn, lấy ai mà thọ cái diệt? Nếu từ cái diệt mà có, thì khi có cái sanh: cái diệt không có, có ai để biết cái sanh? Nếu từ căn mà ra thì hai tướng thức và ngủ theo thân mà có mở, có khép. Nếu rời ngoài hai tướng thức, ngủ này thì cái Ý Hay Biết đó cũng giống như hoa đốm trên không, rốt ráovô tự tánh. Nếu từ hư không mà sanh ra, thì hư không tự biết lấy, dính dáng gì đến chỗ thâu nhập của ông?

“Vậy, nên biết rằng: Ý Nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Trong mộng hiện cảnh, bởi ngủ nên có ra, cái thân thơ thới mà là hư giả. Đã tỉnh thức, chẳng rõ là giả, rồi nhận mà tưởng nhớ đến, cho là chân thật, chuyện ấy là điên đảo vậy. Các hình tướng hữu vi cũng thế. Động tâm thì sanh ra cảnh, đã là hư vọng lại do cái thức phân biệât nhớ giữ mà cho là thật có, thì đều là điên đảo. Nhớ đến thì sanh ra, quên đi thì diệt mất, nên bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt rõ ràng, rời rạc trôi ra chẳng ngừng, sát na sát na liên tục nối tiếp, đó là Ý Căn.

Khi ý chẳng duyên ra, thức ngủ là một. Cầu lấy cái tướng thức ngủ còn chẳng thể có, huống là có các tướng Sanh, Trụ, Dị, Diệt sao? Ngay khi cái ý cùng theo pháp tướng duyên ra, thu nạp các tập khí vào trong đã thành ngay cái tướng mỏi mệt. Thế nên cái Bồ Đềbất giác khởi động để thành ra cái ý, thế là lọt vào chỗ mỏi nhọc của thế trần.

Bộ Tông Cảnh Lục [Của thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ] nói rằng: “Các giác quan níu giữ lấy Cảnh bên ngoài, niệm niệm chảy vào cõi ý”.

Từ ngoài đưa vào trong nên gọi là chảy ngược dòng. Cái ý đã có chỗ duyên, tức “Thức xem trần cảnh thì nhớ”, gọi làm cái sanh. Còn câu “Chảy không chỗ đến” là nói trong khi ngủ mê, các căn không duyên với trần thì không có ngoại trần chảy vào trong đất ý, ý cũng không có chỗ duyên gặp, nên kinh nói “Khi ngủ thì hết nhớ mà quên”, đó là sự diệt vậy.

Phân ra như thế hình như là gượng ép, bởi vì trong ngủ cũng có mộng, trong thức cũng có quên, nghĩa là thức hay ngủ đều có hai tướng sanh và diệt, làm sao mà cho là khi thức chỉ thuộc về sanh, còn ngủ chỉ thuộc về diệt ư? Theo ngu ý của tôi: cái Thấy, Nghe của tai, mắt thì thuận chiều ra đến bên ngoài; còn cái Thấy, Nghe của ý căn thì ngược chiều chảy vào trong. Khi ý căn hấp thu nội trần, mắt như có thấy, tai như có nghe, ẩn hiện dường như không dấu vết, chảy vào chỗ mà thấy, nghe không đến được, chỉ có ý căn biết được mà thôi, chẳng phải là chỗ tai mắt đến được vậy. Bởi thế, năm căn mỗi cái đều có vị trí của nó, mà ý căn thì vô hình, chỉ nương gởi vào các tướng thức, ngủ, sanh, diệt mà thôi. Lìa ngoài thức ngủ, sanh diệt không lấy gì thấy cái ý được. Do đó, ở kinh không nói “Nếu từ căn sanh thì hẳn không có thức, ngủ, sanh, diệt”, mà lại nói “Nếu từ căn sanh thì hai tướng thức, ngủ tùy theo cái ý mà có mở, khép”. Cái ý mà đã lìa ngoài hai tướng này thì cái Ý Hay Biết này tuy có sanh, có diệt cũng giống như không hoa, có chỗ nào để nương vào mà tỏ bày cái ý ! Ý đã lìa hình tướng, hình tướng cũng rời ý, rốt chẳng có tướng thức, ngủ, sanh, diệt làm sao có tự tánh ư? Nên mới nói do căn sanh ra là chẳng đúng vậy. Mở Khép, hai chữ này hình dung hai tướng thức, ngủ rất kỳ diệâu. Thức thì Hình mở ra, ngủ thì Hình khép lại. Cái thức, ngủ, sanh, diệt này là cái chỗ ở của ý. Cho nên kinh mới nói là “Lấy gì để làm ra cái ngủ mê?”, “Lấy ai mà thọ cái diệt?”, thật chẳng phải là Trí vậy. Thế là cái Ý Hay Biết này chẳng phải từ Nhân Duyên sanh, chẳng phải từ Tự Nhiên mà sanh, tức đó là cái Bản Thể của Vô Trụ, mà không gọi ấy là Diệu Chân Như Tánh thì gọi là cái gì?

Ban đầu, Tổ Ngưỡng Sơn hỏi Tổ Quy Sơn: “Như sao là Trụ Xứ Chân Thật của Phật?”

Tổ Quy Sơn nói: “Hãy suy nghĩ chỗ nhiệm mầu của cái Vốn Không Suy Nghĩ, trở lại suy nghĩ chỗ Vô Cùng Linh Diệu, niệm hết bèn đó là Nguồn, Tánh Tướng đều thường trụ, Sự Lý không hai là Chân Phật Như Như”.

Ngài Ngưỡng Sơn ngay dưới lời mà đốn ngộ.

Sau này, có vị sư tên Tư Ích hỏi Tổ Ngưỡng Sơn: “Thiền tông đốn ngộ, rốt ráo cái ý vào cửa là như thế nào?”

Tổ Ngưỡng nói: “Ý ấy rất khó. Nếu thật là môn hạ của Tổ Tông, thượng căn thượng trí, một nghe ngàn ngộ, đắc Đại Tổng Trì. Còn căn nhỏ, trí hèn nếu chẳng ở trong thiền định thì đến vào trong ấy ắt phải hoang mang!”

Hỏi : “Ngoài một đường ấy ra, lại còn có chỗ khác để vào không?”

Tổ Ngưỡng đáp : “Có”.

Hỏi : “Như sao là phải?”

Tổ nói : “Ông là người xứ nào?”

Đáp : “Người xứ U Châu”.

Hỏi : “Ông còn nghĩ đến xứ ấy chăng?”

Đáp : “Thường vẫn nhớ nghĩ”.

Tổ Ngưỡng nói : “Cái suy nghĩ ấy là tâm, cái chỗ suy nghĩ là cảnh. Xứ ấy nào nhà cửa, vườn rừng, ngựa xe... đầy dẫy. Ông hãy xoay sự suy nghĩ trở lại để suy nghĩ cái tâm ấy, thật có bao nhiêu thứ đó chăng?”

Đáp : “Tôi đến trong ấy toàn chẳng thấy có gì!”

Tổ Ngưỡng nói : “Tín vị thì phải, nhưng nhân vị thì chưa phải”.

Hỏi : “Ngoài cái ấy ra, riêng còn có ý hay không?”

Tổ nói : “Riêng có, riêng không thì chẳng kham được vậy”.

Hỏi : “Đến trong đó, làm gì là phải?”

Tổ Ngưỡng nói : “Cứ theo chỗ ông hiểu, chỉ được một cái huyền, được an nhiên mặc áo, về sau tự xem”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Không có ngoài, nên dung chứa

Không có ngại, nên an hòa

Tường vách chất ngất

Cửa khóa trùng trùng

Rượu thường vui mà dẹp khách

Cơm tuy no mà chẳng cày

Độât nhiên ra khỏi hư không, hề, cánh mầu cuốn gió

Đạp lật lại biển cả, hề, sấm tiển rồng chơi”.

Bài tụng này là Đầu sào trăm thước cần tiến bước. Không thể chấp bám cảnh giới của ngộ, tự cho là đủ. Nếu chỉ tuyệt không thấy có một lời, chỉ làm rỗng không ý căn, thì đối với cái chỗ Chân Phật Như Như còn rất xa lắm lắm.

G. THU MƯỜI HAI XỨ

Kinh: “Lại nữa, Anan, như sao là mười hai Xứ vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh?

Thông rằng: Mới đầu, ở trong năm Ấm thì dùng phép tỷ dụ để phá tình chấp, vì ngũ Ấm vốn không, nếu không so sánh thì khó hiển bày. Tiếp đến, ở trong sáu Nhập chỉ ra cái sự việc giả để hiển bày cái vọng tướng của chúng. Sáu Nhập vốn vọng, nên dùng vọng để dẫn đến vọng, có thể suy ra mà thông hiểu. Đoạn này nói đến Mười Hai Xứ cho đến đoạn sau là Bảy Đại thì lấy ngay cái cảnh thấy, nghe trước mắt mà chỉ bày cái Như Lai Tạng Tánh của chúng. Thật là mỗi cõi Phật độ, mỗi hạt trần rành rành không hở sót vậy.

Đức Tam Tổ Tăng Xán nói: “Chẳng ghét sáu trần. Liền đồng Chánh Giác”, là đã thấy sâu xa chỗ này vậy.

Thiền sư Kim Sơn Thiện Minh thượng đường nói với đại chúng rằng: “Người xưa nói: Ở mắt là thấy, ở tai là nghe, ở mũi là ngửi hương, ở lưỡi là bàn luận, ở thân là cảm xúc, ở ý là bám níu. Tuy nhiên như thế là chỉ thấy đầu dùi nhọn, chẳng thấy đầu đục vuông!

“Nếu là Kim Sơn tôi ắt chẳng phải thế: Có mắt mà nhìn chẳng thấy, có tai mà lắng chẳng nghe, có mũi mà chẳng biết mùi, có lưỡi mà chẳng hề đàm luận, có thân mà chẳng biết cảm xúc, có ý mà chẳng bám níu. Một niệm tương ưng, sáu căn liền giải thoát. Dám hỏi các vị thiền đức: Thử nói xem là đối với lời trước là đồng hay khác? Nếu có bậc cụ nhãn thì xin bước ra làm cho rõ thông tin tức. Còn nếu không có, xin vì các ông mà giải nghĩa trùng trùng. Buông mở ra thì riêng thông xe, ngựa. Nắm tóm lại thì mảy lông cũng chẳng còn. Nếu là bậc thiền gia cự phách thì kham hết mọi trái phải, phân chia”.

Một đoạn chỉ bày này quả là cùng đoạn kinh trên trùng trùng giải thích.

Kinh : “Anan, ông hãy xem rừng cây Kỳ Đà và các suối ao đó. Ý ông thế nào? Như thế là sắc trần sanh ra cái Thấy hay là cái Thấy sanh ra sắc tướng?

“Anan, nếu Nhãn Căn sanh ra sắc tướng, thì khi thấy hư không không có sắc tướng lẽ ra cái tánh của sắc đã tiêu mất rồi. Mà đã tiêu mất thì tỏ rõ hết thảy đều không. Sắc tướng đã không thì lấy gì rõ được tướng hư không? Đối với hư không thì cũng như vậy.

“Lại nếu sắc trần sanh ra cái Thấy, thì khi thấy hư không bèn không có sắc, cái Thấy hẳn tiêu mất. Tiêu mất thì tất cả đều không, lấy gì mà rõ được hư không và sắc tướng?

“Thế nên, phải biết cái Thấy cùng với sắc, không đều không có xứ sở. Tức Sắc Trần và cái Thấy, cả hai Xứ đó đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Ở đoạn trước dựa trên sáu Nhập để phá sáu căn thì tuy dùng sáu trần để đối biện mà ý chánh vẫn ở tại căn. Hiện đây là nói về Mười Hai Xứ, thì tuy là phá cả căn lẫn trần, mà chánh là phá cái trần. Sau này, nói về Mười Tám Giới, thì chỉ chuyên phá cái Thức. Đoạn trước về sáu Nhập thì luôn luôn có câu “Đều là tướng phát mỏi do chăm chú của Bồ Đề”, đó là từ trên Căn mà nói. Đoạn này nói “Hãy xem rừng Kỳ Đà và các suối ao” là từ trên Sắc mà khởi nói.

Nếu nói là sắc sanh ra cái Thấy, thì chắc hư không chẳng sanh ra cái Thấy. Vậy lấy cái gì giúp thấy sắc, lại rõ thấy hư không? Nếu nói là con mắt sanh ra sắc tướng, thì chắc là nó không thể sanh ra tướng hư không, thì cái gì giúp hiển bày sắc, lại hiển bày hư không? Do đây mà nói: Con mắt không thể sanh ra sắc, con mắt vốn tự tịch diệt, nào cùng với sắc ư? Sắc không thể sanh ra con mắt, sắc vốn tự tịch diệt, đâu cùng với mắt ư? Chỉ lấy hư khônghình dung ra sắc thì sắc trần tự phá. Cái Thấy cùng với sắc, không đều không có xứ sở. Sắc là Không mà cái Thấy cũng Không đó vậy. Sắc và cái Thấy đều Không, lấy gì làm Nhân Duyên, lấy gì làm Tự Nhiên, thì chẳng gọi đó là Tánh Chân Như sao?

Xưa, Tổ Ngưỡng Sơn chỉ con sư tử ở ngoài tuyết nói: “Có vượt qua được cái sắc này không, nhỉ?”

Tổ Vân Môn nói: “Hiện giờ nên cùng nhau đẩy ngã cho xong”.

Ngài Tuyết Đậu nói: “Chỉ biết đẩy ngã, chẳng biết đỡ dậy”.

Ngài Phật Giác tụng rằng :

“Một sắc không qua chỉ bày người

Trong cõi bạc trắng luống than van

Vượt ngoài “xô ngã” và “đỡ dậy”

Cũng tựa gió Đông đón sáng Xuân”.

(Nhất Sắc vô quá chỉ thị nhân

Bạch ngân thế giới lý tần thân

Siêu nhiên thôi đảo hoàn phù khởi

Tranh tợ Đông phong hú nhật tân).

Ngài Thiên Đồng tụng rằng: “Một ngã một dậy, sư tử sân tuyết. Khéo không phạm đến nhưng chứa lòng nhân. Mạnh mẽ ở chỗ làm mà thấy nghĩa. Ánh sáng trong suốt soi mắt mà tựa người mê. Rõ ràng đổi thân sa vào địa vị. Là kẻ thầy tu, rõ không nương gởi, cùng tử cùng sanh, nào đây, nào đó? Tin ấm nứt cây mai, hề, Xuân đến lạnh cành. Gió mưa lay rụng lá, hề, Thu lặng mưa đầy”.

Tổ Vạn Tùng nói: “Đã kêu là Sắc ắt cùng với con mắt mà đối nhau. Cái Sắc vượt qua màu trắng, chỉ là một Vô Sắc, nên không có với mắt đối nghịch”.

Tổ Vân Môn nói: “Sở dĩ nói “Hiện nên cùng đẩy ngã”, vì nếu hướng về chỗ trắng, chỗ không trắng mà nhận lấy thì thật đã rơi vào trong cõi Vô Sắc. Ngài Tuyết Đậu sở dĩ riêng chỉ ra một con đường để sống lại, ấy là hướng về chỗ xô ngã mà dạy đỡ dậy”.

Tổ Phật Nhãn nói: “Nếu ở trong ấy mà giúp đỡ nâng cho đứng dậy thì liền sanh có thứ lớp”.

Như các vị tôn túc đối với một sắc tướng nhỏ nhặt mà còn cần phá sạch hết ráo, huống gì là trước mắt thấy có đủ thứ sao?

Kinh: “Anan, ông lại nghe trong vườn Kỳ Đà này, khi thức ăn dọn rồi thì đánh trống, khi chúng nhóm lại thì đánh chuông. Tiếng chuông, tiếng trống trước sau nối tiếp nhau. Ý ông thế nào? Như vậy là cái Tiếng đến bên cái Nghe hay cái Nghe đến chỗ cái Tiếng?

“Anan, nếu như cái tiếng đó đến bên cái Nghe, thì cũng như ta khất thực trong thành Thất La Phiệt, ở rừng Kỳ Đà không có ta nữa. Cái tiếng đó đã riêng đến bên cái Nghe của Ông Anan, thì lẽ ra Ông Mục Liên, Ông Ca Diếp không cùng nghe được một lần. Huống gì trong này có một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa môn, một khi nghe tiếng chuông thì đồng đến chỗ ăn cơm cả.

“Lại như cái Nghe của ông đến chỗ cái tiếng, thì cũng như ta đã về rừng Kỳ Đà rồi, trong thành Thất La Phiệt không còn ta nữa. Vậy, khi ông nghe tiếng trống, cái Nghe của ông đã đến nơi tiếng trống rồi, thì khi có lúc tiếng chuông phát ra, đáng lý ông không thể cùng nghe, huống nữa, ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, bò, dê và nhiều tiếng khác. Còn nếu chúng không đi đến với nhau thì lại là không có nghe gì cả.

“Thế nên, phải biết rằng cái Nghe và cái Tiếng đều không có xứ sở. Tức cái Nghe và Thanh Trần, hai Xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Câu “Cũng như Ta khất thực trong thành Thất La Phiệt, tại rừng Kỳ Đà không có Ta nữa” để thí dụ cho cái Tiếng đến bên cái Nghe, thì các chỗ khác không còn có cái tiếng, vậy sao một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa môn lại còn cùng nghe? Câu “Cũng như ta đã về rừng Kỳ Đà rồi, trong thành Thất La Phiệt không còn có ta nữa” để thí dụ cho cái Nghe đến chỗ cái tiếng thì các chỗ khác phải không còn cái Nghe, vậy thì tại sao lại nghe tiếng voi, ngựa, bò, dê và nhiều tiếng khác nữa? Câu “Nếu không đi đến với nhau” tức là rơi vào ngoan không. Nghĩa Nghe không thành lập được, thì cái Tiếng và cái Nghe đều không có dấu tích. Uyển chuyển mà cùng khắp, gặp chỗ đều thông suốt, có xứ sở nào đâu? Cho là Nhân Duyên, thì không có chỗ Duyên. Cho là Tự Nhiên, thì cũng chẳng có chỗ nào mà Tự. Ngay ấy là hư vọng, bèn là không có gì chẳng phải là Chân Thể, nên gọi đó là Tánh Chân Như Nhiệm Mầu vậy.

Tổ Huyền Sa nhân có người đang tham học, nghe thấy tiếng chim én, bèn nói : “Bàn sâu Thật Tướng, khéo thuyết Pháp Yếu!”

Liền xuống tòa giảng.

Khi ấy, có một vị sư hỏi thêm : “Thưa, tôi chẳng hiểu”.

Tổ Sa nói : “Đi đi, ai tin được ông!”

Lại có Tổ Báo Từ lên tòa giảng, nghe chim tu hú kêu, bèn hỏi nhà sư: “Tiếng gì thế?”

Sư đáp : “Tiếng chim tu hú”.

Tổ Từ nói : “Nếu muốn không chiêu vô gián nghiệp, chớ báng Như Lai Chánh Pháp Luân”.

Rồi xuống tòa.

Tất cả âm thanh là Phật Thanh. Thế còn hiểu được.

Còn, Tổ Huyền Sa nói: “Trong chuông không có tiếng trống, trong trống không có tiếng chuông, chuông trống chẳng có xen lẫn nhau, mỗi mỗi không sau trước”.

Hiểu thế nào? Đây là ý chỉ Vô Sanh Duyên Khởi. Ngộ đó thì cái chỗ nói là Thật Tướng, là Pháp Yếu, có thể thấy rồi.

Kinh: “Anan, ông hãy ngửi mùi hương chiên đàn trong lư này. Hương ấy, nếu đốt đến một thù thì cả thành Thất La Phiệt, trong bốn mươi dặm đều đồng thời ngửi được mùi thơm. Ý ông thế nào? Mùi thơm ấy sanh ra do cây chiên đàn, do nơi mũi ông, hay sanh từ hư không?

“Anan, nếu mùi thơm ấy sanh ra do mũi ông, đã nói là từ mũi sanh ra, tất phải từ lỗ mũi mà ra, lỗ mũi không phải chiên đàn, làm sao trong lỗ mũi lại có được mùi thơm chiên đàn? Lại đã gọi rằng ông ngửi mùi thơm, thì mùi thơm phải vào trong lỗ mũi; còn nói là trong lỗ mũi phát ra mùi thơm, nói thế là không đúng nghĩa. Nếu sanh ra do nơi hư không, thì tánh hư không là thường còn, mùi thơm lẽ ra cũng phải thường có, cần gì phải đốt cây chiên đàn khô trong lư rồi mới có? Nếu mùi thơm sanh ra từ cây chiên đàn, thì cái chất thơm ấy nhân đốt mà thành khói, nếu mũi ngửi được là do khói xông đến mũi. Tại sao khói đó xông lên khoảng không chưa được bao xa mà trong vòng bốn mươi dặm đều đã ngửi thấy?

“Thế nên, phải biết Hương Trần và cái Ngửi đều không xứ sở. Tức cái Ngửi và Hương Thơm, cả hai Xứ ấy đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Cái Ngửi này cùng với Hương Thơm, chẳng phải mũi, chẳng phải hư không, chẳng phải gỗ chiên đàn, tức là cái Hương Xứ không có thật vậy. Thế nào mà trong vòng bốn mươi dặm đồng thời ngửi thấy, thì cái sức đặc biệt của mùi thơm cũng là không thể nghĩ bàn.

Táo Bách Luận: “Cây chiên đàn Ô Lạc Ca: Ô Lạc Ca là tên con rắn. Chiên đàn là cây thơm. Rắn này rất độc, nó hay sợ nóng độc, thường quấn quanh cây thơm này thì độc khí hết. Ý nói rằng nếu có chúng sanh nghe nói cái Hương mà Tâm Cảnh đều không, vốn không thể tướng, không xứ sở, không một pháp khá được, tin mà ngộ nhập thì tất cả phiền não, độc khí tự nhiên đều thanh tịnh”.

Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn [Đời Đường, tại Đăng Châu, núi Hương Nghiêm, tại Ngụy Sơn học Tổ Linh Hựu được tỏ ngộ. Sắc tặng hiệu tự là Tập Đăng Đại Sư.] có bài kệ:

“Có một lời, toàn quy củ

Định suy lường, theo bọn xấu

Đạp lên mà chẳng lầm, bèn tỉnh ngay xứ sở

Một đời tham học, sự không thành

Ân cần ôm được gốc chiên đàn”.

Bài kệ này từ đây mà ra vậy.

Tổ Chí Công [Tổ sư đời vua Lương Võ Đế. Vua thường hỏi việc an nguy đất nước về sau. Tổ không nói, lấy tay chỉ yết hầu để chỉ bày, ý nói Hầu Cảnh. Vua không hiểu. Sau quả bị nghịch thần là Hầu Cảnh bức bách. Vua mới tỉnh ngộ thì nghiệp xưa đã tiêu] nói: “Trọn ngày lấy hương chọn lửa. Không hay thân tức Đạo Tràng”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra: “Kẻ giỡn tinh hồn nào có giới hạn?”

Ngài Huyền Sa nói: “Suốt ngày lấy hương chọn lửa. Chẳng hay Chơn Thật Đạo Tràng”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra: “Thật kỳ quái: tám mươi ông vào trường ốc, chẳng phải là trẻ nhỏ giỡn chơi? Thử nói cái lợi cái hại ở chỗ nào? Có Trí hay chẳng có Trí, so ra trong ba mươi dặm đều đồng một tác dụng Vô Sanh, mới là có chút hào ly biện biệt ở đây”.

Người có trí hãy biện biệt.

Kinh: “Anan, ông thường hai thời ở trong chúng cầm bình bát khất thực. Trong đó, hoặc gặp những món tô lạc đề hồ, gọi là vị quý. Ý ông thế nào? Vị ấy sanh ra ở trong hư không, do nơi cái lưỡi hay do nơi đồ ăn?

“Anan, nếu cái Vị ấy sanh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì ở trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi. Cái lưỡi lúc ấy đã thành vị tô rồi, nếu gặp cục đường phèn, lẽ ra cái Vị không thay đổi. Nếu chẳng thay đổi thì không gọi được là biết Vị. Còn nếu thay đổi thì cái lưỡi không có nhiều tự thể, thì làm sao một cái lưỡi lại biết được nhiều Vị Thể thế?

“Nếu Vị ấy sanh ra do nơi đồ ăn, thì đồ ăn không có sự Biết, làm sao tự nó biết Vị? Lại như đồ ăn tự biết, thì cũng giống như người khác ăn, nào có dính dáng gì đến ông, mà nói là ông biết Vị?

“Nếu Vị ấy sanh ra từ hư không, thì ông hãy nếm hư không xem là Vị gì. Nếu hư không đó mà có Vị mặên, làm mặn lưỡi ông, chắc cũng làm mặn cái mặt ông và mọi người trong cõi này: cũng giống như cá biển, đã thường thọ nhận cái mặn thì không còn biết cái vị nhạt là gì nữa. Nhưng nếu không biết nhạt thì lại cũng không biết mặn. Tức là không có chỗ Biết, sao gọi là biết Vị?

“Thế nên, phải biết: các Vị và Lưỡi Biết Nếm đều không xứ sở. Tức cái Biết Nếm và các Vị, cả hai Xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Đoạn này chứng minh cái tánh của Vị, chẳng sanh ra do nơi hư không, chẳng sanh ra do nơi Lưỡi, thì còn dễ biết. Nhưng sao lại nói chẳng do món ăn sanh ra? Vì, món ăn chẳng có Thức, nó chẳng tự nói: Vị của tôi ngon, Vị tôi dở. Phân biệt ngon, dở là thuôïc về căn lưỡi. Mà căn lưỡi thì không có định thể, theo Vị mà dời đổi. Đủ biết rằng: Vị tự là vị, lưỡi tự là lưỡi. Cả hai đều lặng nhiên. Biết lưỡi cùng vị đều vắng lặng, thì thật tin là chúng chẳng phải là Nhân Duyên, chẳng phải là Tự Nhiên mà chính là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.

Thiền sư Thần Đảnh Nhân có lần cùng với chúng Tăng đến miền Tương Miện. Có một vị sư khởi bàn về Thiền rất trôi chảy. Trong quán Dã Phạn Sơn đã bày xong thức ăn, mà nhà sư luận nói vẫn chưa xong.

Tổ Đảnh nói: “Ba cõi duy chỉ một Tâm, muôn pháp duy chỉ là Thức. Duy Thức, duy Tâm, mắt thanh, tai sắc là lời của ai thế?”

Nhà sư nói: “Lời của Tổ Pháp Nhãn”.

Tổ Đảnh hỏi: “Nghĩa ấy như thế nào?”

Sư đáp: “Duy Tâm nên Căn và Cảnh không đến nhau. Duy Thức nên Thanh, Sắc khua đánh”.

Tổ Đảnh nói: “Cái Lưỡi, cái Vị có phải là Căn và Cảnh không?”

Nhà sư đáp: “Phải”.

Tổ Đảnh lấy đũa gắp rau bỏ vào miệng, giỡn cợt nói rằng: “Nào gọi là tương nhập sao?”

Người ngồi chung quanh đều kinh hãi. Nhà sư chẳng thể đáp lại.

Tổ Đảnh nói: “Cái vui dọc đường rốt cuộc chưa đến nhà. Kiến giải dầu vi diệu cũng chẳng gọi là thấy đạo. Tham, cần thật tham. Ngộ, cần thật ngộ. Diêm Vương chẳng sợ chuyện nói nhiều”.

Vị sư làm lễ mà cáo từ.

Tổ Huyền Sa có lần ăn trái vải, hỏi đại chúng: “Trái vải này cho là màu hồng ư? Cho là màu đỏ ư? Các ông làm sao đây? Nếu nói là một màu lại là mông lung; nói là nhiều màu thì chỉ thành cái đoạn-thường [Tức Đoạn Thường Nhị Kiến. Cái thứ hai trong năm Ác Kiến, gọi là Biên Kiến. Biên Kiến có hai thứ: một là Đoạn Kiến; hai là Thường Kiến] Các ông làm sao đây?”

Sư Ngạn Thao nói: “Đó chỉ vì Hòa Thượng phân biệt”.

Tổ Sa nói: “Ngu si mơ hồ như thế có giao thiệp gì đâu?”

Sư Xung Cơ nói: “Hết thảy xưa nay chỉ là một màu”.

Tổ Sa nói: “Đều là mơ hồ hết, có khi nào mà hiểu được?”

Bèn quay qua hỏi sư Kiểu Nhiên: “Ông nói thế nào?”

Kiểu Nhiên nói: “Không thể không biết đó là trái vải”.

Tổ Sa nói: “Thật chỉ là trái vải”.

Lại nói: “Các ông như lâu nay ở trong Giá Lý (Tâm Pháp) của tôi, cùng nói gì mà chẳng biện nổi trắng đen, không biết lành dữ. Tôi luôn nói với các ông là: Dụng xứ chẳng hoán [Thay đổi] cơ. Nhân sao chỉ lo đối đáp, có giao thiệp gì đâu!”

Người xưa nơi một miếng ăn, một thức uống đều cốt phát minh chuyện hướng thượng. Mỗi mỗi đều như thế, há phải ở chỗ đối đáp lưu loát. Cần phải thực ngộ mới cùng người sáng mắt tương kiến vậy.

Kinh: “Anan, buổi sớm mai ông thường lấy tay xoa đầu, ý ông thế nào? Trong việc biết xoa đó, lấy cái gì làm cái Biết Cảm Xúc? Cái Biết ấy ở nơi tay hay ở nơi đầu?

“Nếu nó ở nơi tay, mà cái đầu không biết, làm sao thành ra Cảm Xúc? Nếu nói ở nơi đầu, mà cái tay lại vô dụng thì làm sao gọi là Cảm Xúc? Nếu đầu lẫn tay mỗi cái đều có cái Biết, thì một mình Anan lại có hai cái thân hay sao? Nếu đầu và tay đều do một Cảm Xúc sanh ra thì tay và đầu phải là một tự thể. Mà nếu chỉ có một tự thể thì Cảm Xúc không thành được. Còn nếu là hai thể thì Cảm Xúc ở phía nào? Ở bên Năng thì không ở bên Sở, ở bên Sở thì không có ở bên Năng. Chẳng có lẽ là hư không tạo thành Cảm Xúc cho ông?

“Thế nên, phải biết: Cảm XúcThân Căn đều không xứ sở. Tức cái Thân biết Cảm Xúc và cái Cảm Xúc, cả hai đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Ở đây, chỉ rõ tánh Xúc là hư vọng, ở năng thì chẳng ở sở, ở sở thì chẳng ở năng. Năng sở đều chẳng phải, thì Xúc tức là Tánh Chân Như.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Như thế, tự tánh như huyễn, như mộng, như bóng dáng rốt chẳng thành tựu. Trong Tánh Chân Như các pháp tùy duyên. Tuy là tùy duyên, các pháp quy tánh. Khi tùy duyên thì hình như có hiện ra. Như xem làm huyễn thuật: không có mà có. Như nhìn cảnh mộng: không thấy mà thấy. Như xem ảnh trong nước: chẳng phải sanh ra, chẳng phải nhập vào. Như nhìn bóng trong gương: chẳng trong, chẳng ngoài. Vì Vô Tánhtùy duyên, nên Lý chẳng thành tựu. Vì tùy duyênvô tánh, nên Sự chẳng thành tựu. Lý Sự không thành tựu thì tất cả các pháp đều không thành. Cũng như trong chiêm bao mộng thấy đánh võ với người: cũng có cảm nhận xúc chạm, nhưng rốt ráo ai là người đánh, ai cảm thấy bị đánh? Thế nên, tất cả các pháp đều như thế cả”.

Tổ Bửu Phước thấy có vị tăng đi lại, lấy cây gậy đánh vào cây cột lộ trụ, rồi đánh vào đầu ông tăng.

Vị này buông tiếng kêu đau.

Tổ Phước nói: “Cái ấy vì sao chẳng đau?”

Vị tăng không đáp được.

Tổ Huyền Giác nói thay rằng: “Ham đi thì chống gậy”.

Lại còn Tổ Bửu Giác có lần hỏi Ông Chuyển Vận Phán Quan là Hạ Ỷ rằng: “Ông nói Hữu Tình với Vô Tình đều cùng một thể phải không?”

Khi ấy, có con chó nằm dưới bàn hương án, bèn lấy cây thước đập xuống bàn hương án rồi lại đập con chó, nói: “Con chó Hữu Tình thì chạy đi, bàn hương án Vô Tình thì vẫn còn đó. Như thế nào là một thể được?”

Ông Hạ Ỷ không thể đáp.

Tổ Bửu Giác nói: “Vừa mới tư duy liền thành dư pháp!”

Cái hiểu biết của chư vị Thánh đời trước trao truyền cho nhau đều là ý chỉ này.

Kinh: “Anan, ông thường trong Ý duyên với ba tánh thiện, ác và vô ký sanh ra có các pháp trần. Những pháp trần đó tức nơi tâm mà sanh ra, hay là rời ngoài tâm mà có riêng nơi chốn?

“Anan, nếu tức nơi tâm thì các pháp không phải là trần cảnh, như thế thì chúng không phải là cái sở duyên của tâm, làm sao thành một Xứ được?

“Nếu rời ngoài cái tâm có riêng nơi chốn, thì bản tánh của pháp trần là có biết hay không có biết? Nếu có biết thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và không phải là trần cảnh, thì cũng như là cái tâm của người khác. Còn nếu nó tức là ông và cũng tức là tâm, thì làm sao mà cái tâm ông lại trở thành hai ở nơi ông?

“Nếu không có biết thì cái pháp trần đó đã không phải là sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư không, thì nó hiện ở chỗ nào? Hiện nay, ở nơi Sắc Không, không thể chỉ ra nó được, chẳng lẽ trong nhân gian lại có cái ngoài hư không? Không có cảnh sở duyên thì ý căn do đâu mà lập thành một Xứ được?

“Thế nên, phải biết : Pháp trần cùng ý căn đều không xứ sở. Tức ý cănpháp trần cả hai xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, cũng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Ba sự thiện, ác, vô ký ngay khi đối đãi với căn thì các sự ấy đều thật, nên gọi là Thật Cảnh. Còn khi không đối đãi với cảnh, chỉ có một mình ý thức duyên mà thôi, bèn là bóng dáng của Thật Cảnh, nên gọi là Nội Trần. Nội trần không ra ngoài ba tánh thiện, ác, vô ký duyên ra Sắc Không, hết thảy pháp, nên cũng gọi là Pháp Trần. Từ vô thủy đến nay, trong và ngoài huân tập lẫn nhau, nên nói là “Sanh thành”.

Nếu nói “Pháp tức nơi tâm”, thì tâm là năng duyên, pháp là sở duyên làm sao mà tức được. Điều này dễ biện rõ. Nếu nói “Pháp lìa ngoài tâm”, thì cái pháp này thật ở đâu? Cho pháp là có biết, thì đồng với tâm, mà đã đồng với tâm bèn chẳng phải là trần cảnh vậy. Chẳng phải trần mà lại khác với ông, mà vẫn phải gọi là tâm, tức là cũng như tâm của người khác. Chẳng phải trần mà không khác với ông, thì sao tâm ông lại thành hai ở nơi ông, mà gọi đó là pháp trần vậy sao? Do đó, lấy sự Có Biết mà làm nơi chốn thì không thể được. Còn cho là Không Biết thì pháp trần ấy lấy cái gì mà bày tỏ ra được?

Pháp trần đã chẳng phải là các tướng Sắc Không, lại chẳng phải rời ngoài Sắc Không mà có riêng chỗ chứa lập. Ngoài sắc có hư không, hư không thì chẳng có gì ở ngoài. Nếu pháp trần có cái Xứ để cho tâm duyên được thì chắc là hư không đã có cái ở ngoài nó. Nhưng hư không làm gì có cái ở ngoài nó, thì tâm duyên vào đâu?

Sở dĩ tâm mà duyên với pháp, nghĩa là Sắc Không thì vô tri, do tri mà hiển bày. Tri thì có phân biệt, bèn gọi đó là pháp. Nay pháp đã vô tri, lại không nơi chốn, thì tâm tuy là có biết, mà biết cái gì? Do đó, lấy vô tri làm nơi chốn cho pháp trần thì cũng không được. Chẳng phải có biết, chẳng phải không có biết, thì Xứ do đâu mà lập được? Tức nơi tâm chẳng có pháp, lìa ngoài tâm cũng chẳng có pháp, nên pháp trần không có tự tánh vậy. Thế thì chẳng phải hư vọng sao? Pháp không xứ sở thì ý căn là không. Nên gọi đó là Diệu Chân Như Tánh vậy.

Thiền sư Thanh Châu Pháp Bổn thượng đường, nói: “Khởi lên âm thanh mà muốn bặt tiếng vang, đâu biết âm thanh là gốc của tiếng vang. Giỡn bóng mà muốn trốn hình, đâu biết hình là gốc của bóng. Lấy pháp hỏi pháp, chẳng hay pháp vốn chẳng phải pháp. Lấy tâm truyền tâm, nào hay tâm vốn vô tâm. Tâm vốn vô tâm, biết tâm như huyễn. Ngộ pháp chẳng phải pháp, biết pháp toàn như mộng. Tâm, pháp không thực, chớ giả dối truy cầu. Mộng huyễn, Không hoa nhọc gì nắm bắt! Đến vào trong ấy thì ba đời Chư Phật, một Đại Tạng Giáo, lời lẽ Tổ Sư, Tôn Túc trong thiên hạ đều lộ bày là đám dây leo, chùm gởi, trọn chẳng còn bám chấp. Tại sao thế? “Thái bình vốn chỗ tướng quân mong. Không để tướng quân thấy thái bình””.

Bài kệ trong kinh Tạp Hoa nói :

“Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân

Tâm, Ý các Tình Căn

Bởi đó thường lưu chuyển

thật không người chuyển

Pháp Tánh vốn không sanh

Thị hiệân mà có sanh

Trong ấy không Năng hiện

Cũng không vật Sở hiện

Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân

Tâm, Ý các Tình Căn

Cả thảy: Không, Vô Tánh

Vọng tâm phân biệt: Có

Như thế mà quan sát

Tất cả đều Vô Tánh”.

Đại ý đoạn này thật cùng với kinh mà hiển phát.

H. THU MƯỜI TÁM GIỚI

Kinh: “Lại nữa, Anan, như sao là Mười Tám Giới vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh?

Thông rằng: Đối với Trần thì gọi là Căn, Căn ở trong vậy. Đối với Căn thì gọi là Trần, Trần ở ngoài vậy. Ở khoảng giữa, mỗi mỗi phân biệt là cái Thức. Ba cái Căn, Trần, Thức nương nhau mà thành lập, như cây lau gác lên nhau, nên có tên là Mười Tám Giới. Ba cái ấy, có thì cùng có, không thì cùng không, vốn không tự tánh. Đã không tự tánh, bèn vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh vậy.

Thiền sư Thùy Lộc Bổn Tiên thượng đường, nói: “Chỗ các Pháp sanh ra là chỗ hiện bày của tâm”. Lời nói ấy thật là cửa nẻo để vào. Thử hỏi các ông: mắt thấy hết thảy sắc; tai nghe hết thảy thanh; mũi ngửi hết thảy mùi; lưỡi nếm hết thảy vị; thân chạm hết thảy các thứ mềm, trơn; ý phân biệt hết thảy các pháp. Vậy thì cái vật đối với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chỉ duy là tâm các ông hay chẳng phải là tâm các ông? Nếu nói là duy chỉ tâm các ông, sao chẳng cùng thân các ông làm thành một khối cho rồi? Vì sao các vật đối đãi ấy lại ở ngoài các Căn của các ông? Các ông nếu nói vật đối với mắt, tai, mũi, lưỡi... chẳng phải là tâm các ông thì tại sao có câu “Chỗ các pháp sanh ra là chỗ hiện bày của tâm” lưu truyền tại thế gian, ai cũng nêu bày? Các ông nghe lời yếu lý ấy, có hiểu không? Nếu không hiểu, hãy dụng tâm thương lượng để được dạy cho mà hiểu, ở trong ấy chớ có lười biếng học hỏi. Vô sự, hãy lui”.

Có vị tăng hỏi Tổ Vân Cư : “Khi sáu cửa chẳng rõ thì như thế nào?”

Tổ Cư nói : “Chẳng giao thiệp với duyên”.

Vị tăng hỏi : “Thế nào là chuyện hướng thượng?”.

Tổ Cư nói : “Người cẩn thận thì không giữ gìn”.

Ngài Đầu Tử tụng rằng :

“Xuân đến, người đá nhìn núi xa

Oanh kêu, hoa gỗ sóng xanh nhàn

Nên biết, ngoài mây, tùng, núi đẹp

Nghìn xưa đón gió mặc năm hàn”.

Hai câu đầu tụng về Chẳng giao thiệp với duyên. Hai câu sau tụng về Chuyện hướng thượng. Cần rõ được sự hướng thượng mới tin Mười Tám Giới vốn là Tánh Chân Như vậy.

Kinh: “Anan, như chỗ ông bày tỏ: Nhãn cănsắc trần làm duyên, sanh ra Nhãn Thức. Cái Thức này là nhân nhãn căn sanh ra, lấy nhãn căn làm Giới; hay nhân sắc trần sanh ra, lấy sắc trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân nhãn căn sanh ra, mà không có Sắc, có Không, thì không thể phân biệt, dầu cho có cái Thức của ông cũng chẳng làm gì. Cái Thấy của ông mà không có xanh, vàng, trắng, đỏ thì không thể biểu hiện ra được, vậy do đâu mà lập ra Giới?

“Nếu nhân sắc trần sanh ra, thì khi ở hư không, chẳng có sắc, lẽ ra cái Thức của ông phải diệt mất, làm sao mà biết đó là hư không? Nếu khi sắc trần biến đổi, ông cũng biết sắc tướng biến đổi, mà cái Thức của ông chẳng biến đổi, thế thì do đâu mà lập sắc trần làm Giới? Nếu theo sắc mà biến đổi thì cái Giới không thành. Nếu không biến đổi, tức là thường hằng, cái Thức đã từ sắc sanh ra, lẽ ra không biết hư không ở chỗ nào.

“Nếu do cả hai thứ nhãn cănsắc trần chung nhau sanh ra, thì hợp lại ắt ở giữa phải có chỗ lìa; còn như lìa, ắt hai cái có thể hợp lại. Như thế, thể tánh xen lộn, làm sao thành được Giới?

“Thế nên, phải biết: Nhãn căn, sắc trần làm duyên sanh ra Nhãn Thức Giới, cả ba chỗ đều không. Tức là cả ba thứ Nhãn Giới, Sắc GiớiNhãn Thức Giới vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Cái Mười Tám Giới này, chỉ phá sáu Thức. Nói cái Thức này chẳng phải từ mắt sanh ra mà lấy mắt làm Giới, vì Thức thì phân biệt, nhưng nếu không có Sắc, Không thì phân biệt dùng vào đâu?

Cái Thức này chẳng phải từ sắc sanh ra mà lấy sắc làm Giới, vì sắc thì có biến diệt, Thức thì không đổi thay, nếu chỉ từ sắc mà ra thì làm sao biện không?

Thức ấy cũng không nhân nhãn và sắc hợp lại mà làm ra Giới. Vì một bên có Biết (nhãn căn) hợp với một bên không Biết (sắc trần) ắt chống nhau, làm sao mà tương nhập? Nên nói “Ở giữa phải có chỗ lìa”.

Bảo rằng lìa ngoài nhãn và sắc mà sanh ư? Lìa căn tức là hợp với cảnh, lìa cảnh tức phải hợp với căn, vậy Thức thuộc bên nào? Thế nên mới nói “Xen lộn”.

Ba chỗ đồng chẳng phải, thì Giới ở đâu mà có?

Tổ Pháp Nhãn chỉ cây tre, hỏi vị tăng : “Thấy không?”

Vị tăng đáp : “Dạ, thấy”.

Tổ Nhãn nói : “Tre đến trong mắt hay mắt đến bên tre?”

Vị tăng nói : “Đều chẳng phải như thế”.

Sau này, Tổ Pháp Đăng riêng nói: “Khi ấy, chỉ nên bửa mắt ra mà ngó thầy”.

Tổ Quy Tông Nhu riêng nói rằng: “Hòa Thượng chỉ là chẳng tin hai chuyển ngữ của tôi lại có hơi thở của thiền tăng”.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Thiên Đồng Khải: “Như thế nào là con mắt ứng dụng không thiếu hụt?”

Tổ Đồng nói : “Vẹn giống như mù một thứ!”

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

“Mù, ngọng, điếc, câm xa Thiên Chân

Mắt tợ lông mày: Đạo mới gần

Đông Quân đêm trước ngầm ban lệnh

Chốn hoàng oanh hót liễu xanh xuân”.

Ở chỗ này mà tin được thấu đáo thì mặc tình ứng dụng không thiếu hụt.

Kinh: “Anan, lại như chỗ ông bày tỏ: Nhĩ cănthanh trần làm duyên, sanh ra Nhĩ Thức. Thức ấy nhân nhĩ căn sanh ra, lấy nhĩ căn làm Giới, hay nhân thanh trần mà sanh ra, lấy thanh trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân nhĩ căn sanh ra mà không có mặt hai tướng động, tĩnh thì cái biết của căn chẳng thành. Mà đã không biết gì thì cái Biết còn không thành huống là cái Thức phân biệt còn có hình dạng gì?

“Nếu nhân lỗ tai nghe, mà không có động, tĩnh cái Nghe cũng không thành, làm sao lấy hình tướng lỗ tai trộn lẫn sắc trần, mà gọi được là Nhĩ Thức Giới. Cái Nhĩ Thức Giới ấy do đâu mà thành lập?

“Nếu nhân thanh trần mà sanh ra, thì cái Nhĩ Thức nhân thanh trần mà có, bèn chẳng liên quan gì đến cái Nghe, mà đã không nghe, thì cũng không biết các tướng thanh trần ở đâu. Nhĩ Thức mà do thanh trần sanh ra, dầu cho rằng thanh trần do cái Nghe mà có tướng, thì cái Nghe lẽ ra phải nghe được Nhĩ Thức. Nếu không nghe được Nhĩ Thức thì thanh trần chẳng phải là Giới của Nhĩ Thức. Còn nếu nghe được, thì Nhĩ Thức cũng đồng với thanh trần. Nhĩ Thức đã bị nghe, thì cái gì biết sự nghe được cái Nhĩ Thức đó? Còn nếu không ai biết thì rốt cuộc giống như cỏ cây.

“Chẳng lẽ thanh trần và cái Nghe trộn lẫn thành ra cái Giới ở giữa? Giới không có ở giữa thì các tướng nội căn, ngoại trần do đâu mà thành?

“Thế nên, phải biết: Nhĩ căn, thanh trần làm duyên sanh ra Nhĩ Thức Giới, cả ba chỗ ấy đều không. Tức là ba thứ Nhĩ Giới, Thanh Giới và Nhĩ Thức Giới vốn chẳng phải là tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Tiểu thừa cho rằng “Nhân Duyên sanh ra pháp”, lấy đó làm thật có, chẳng hiểu được “Tức Không” nên Phật căn cứ vào chỗ Nghe, Thấy thường ngày ấy mà phá bỏ.

Nếu nhân nhĩ căn mà sanh ra, thì nhĩ cănThắng Nghĩa CănPhù Trần Căn. Thắng Nghĩa Căn biết phân biệt, nhưng nếu khôngthanh trần tiếp xúc thì cái Biết còn không có, huống là có hình tượng gì? Phù trần căn thì dù có xen tạp với sắc trần, mà nếu không có hai tướng động, tĩnh thì cái Nghe còn không có, huống là có Thức Giới! Cho nên, nếu nói “Nhĩ Thức nhân Nhĩ Căn sanh ra”, là sai lầm.

Nếu nhân thanh trần mà sanh ra, thế thì thanh trần đã tự có Nhĩ Thức, cần gì đến tai nghe? Đã không có người nghe, thì ai phân biệt được các thanh trần? Nếu nói nương nhau mà sanh, cho là thanh trần nhân cái Nghe mà có tướng, thì cũng phải cho rằng cái Nghe nhân thanh trầnnghe được Nhĩ Thức. Nhĩ Thức đã bị nghe, thì cũng chỉ là thanh trần, thì còn cái gì làm năng tri để biết rằng đã nghe Nhĩ Thức? Nếu cùng cái Biết, thì thành ra có hai cái Thức! Còn nếu không có cái Biết, thì đồng với cỏ cây. Nên nói “Thức sanh ra nơi Thanh Trần” là sai lầm vậy.

Nếu nói rằng “Thanh Trần và cái Nghe hòa hợp mà sanh ra Nhĩ Thức”, thì một bên là có Biết, một bên là không có Biết, giữa khoảng Biết và Không Biết đó, làm sao mà trộn lẫn để thành ra cái Giới? Cái Giới ở giữa đã không có, thì Thức không chỗ nương, thế thì nội căn, ngoại trần do đâu mà thành lập? Nên nói “Thanh Trần và cái Nghe hòa hợp mà sanh” là sai lầm vậy.

Ba chỗ đều không, thì Nhĩ Thức chẳng sanh, nên biết cái Nhĩ Thức vô sanh ấy tức là Tánh Chân Như vậy.

Có lần, Đức Thế Tôn đang ngồi dưới cây Ni Câu Luật, có người đi buôn hỏi: “Ngài có thấy xe đi qua không?”

Ngài nói : “Chẳng thấy”.

Lại hỏi : “Lại có nghe chăng?”

Đáp : “Chẳng nghe”.

Hai người đi buôn hỏi : “Không thiền định sao?”

Đáp : “Không thiền định”.

Hỏi : “Không phải ngủ sao?”

Đáp : “Không ngủ”.

Người đi buôn tán thán : “Lành thay! Lành thay! Thế Tôn thường biết mà chẳng thấy!” Bèn cúng dường lên hai cây vải trắng.

Có vị sư hỏi thiền sư Hà Trạch Thần Hội: “Khi cái thấy, nghe chiếu thanh, sắc thì đồng thời hay có trước sau?”

Tổ Hội nói: “Đồng thời hay trước sau hãy để đó. Rốt ráo, ông lấy cái gì làm thanh, sắc?”

Vị sư nói: “Như chỗ chỉ bày của thầy, thì không có thanh, sắc nào khá được”.

Rồi quỳ lạy mà đi ngay hôm đó. Sau sư ở ẩn tại núi Mông.

Có vị Tam Tạng xứ Thiên Trúc tên là Thanh Minh đến xứ Mân. Vua xứ Mân mời Ngài Huyền Sa đến để nghiệm luận.

Tổ Sa lấy chiếc đũa sắt gắp lửa gõ vào cái lư đồng, rồi hỏi: “Đó là tiếng gì?”

Vị Tam Tạng đáp: “Tiếng đồng-sắt”.

Tổ Sa nói: “Đại Vương chớ để người ngoại quốc lừa dối!”

Vị Tam Tạng không đáp được.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Hợp với Lý thì đó là Thần: gã nghèo được viên ngọc trong tay áo. Bị Tình gói kín thì đó là Vật: người lực sĩ mất viên ngọc trên trán! Vị Tam Tạng chỉ biết nhìn tới trước. Ngài Huyền Sa lại chẳng thể ngó lui. Hiểu được chăng? Đặt bày điều tội cho người thì tội càng lớn”.

Cái tắc công án này, các vị tôn túc nói rất nhiều.

Vị Tam Tạng nói “Tiếng đồng-sắt” thì rõ ràng đuổi theo thanh trần rồi vậy.

Tổ Pháp Nhãn riêng nói : “Thỉnh Đại Sư làm Đại Vương”.

Tổ Pháp Đăng riêng nói : “Hãy nghe Hòa Thượng hỏi!”

Tổ Tuyết Đậu nói : “Chớ lừa dối người ngoại quốc thì tốt”.

Ở chỗ vị Tam Tạng không trả lời được, Ngài Pháp Nhãn thay thế mà nói rằng: “Đại Sư đã hưởng thọ lâu rồi sự cúng dường của Đại Vương”.

Tổ Pháp Đăng nói thay: “Ấy là Hòa Thượng lừa dối Đại Vương!” Câu nói này rất có ý vị, đó là chỗ Ngài Thiên Đồng nói “Đặt bày điều tội cho người thì tội lại càng lớn” đó vậy.

Cứ theo ý Tổ Huyền Sa thì gọi cái gì là tiếng đồng-sắt? Còn theo ý vị Tam Tạng thì gọi cái gì chẳng phải là tiếng đồng-sắt? Hai lời này rất dễ lừa người. Phải mỗi mỗi đều nhìn thấu mới chẳng bị người lừa.

Kinh: “Anan, lại như chỗ ông bày tỏ: Tỷ cănhương trần làm duyên, sanh ra Tỷ Thức. Thức ấy nhân tỷ căn sanh ra, lấy tỷ căn làm Giới, hay nhân hương trần sanh ra, lấy hương trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân tỷ căn sanh ra, thì trong tâm ông, lấy cái gì làm tỷ căn? Lấy cái hình tướng mũi thịt như hai móng tay, hay lấy sự ngửi biết lay động làm tỷ căn?

“Nếu lấy cái hình tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân và cái biết của thân là cái cảm xúc. Đã gọi là thân thì không phải là lỗ mũi, gọi là cảm xúc thì thuộc về trần. Vậy còn không có gì để gọi là tỷ căn, làm sao mà Giới được thành lập?

“Nếu lấy cái Ngửi Biết làm tỷ căn, thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái biết? Nếu lấy lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất thịt là xúc trần, chứ không phải là tỷ căn. Nếu lấy hư không làm cái Biết, thì hư không ắt tự biết, còn xác thịt lẽ ra chẳng biết. Như thế, lẽ ra hư không phải là ông! Thân ông mà chẳng biết, thì Ông Anan hiện giờ chẳng còn ở đâu nữa.

“Nếu lấy cái hương làm cái biết, thì cái biết thuộc về hương trần, nào dính dáng gì đến ông?

“Nếu mùi thơm, mùi thối sanh ra do tỷ căn của ông, thì hai mùi thơm, thối kia không sanh ra do cây y lan và cây chiên đàn, hai vật đó không đến, thì ông tự ngửi lỗ mũi là thơm hay thối! Thối thì chẳng phải thơm; thơm thì không phải thối. Nếu cả hai mùi thơm, thối đồng ngửi được cả, thì một người ông phải có hai tỷ căn, đứng trước Ta hỏi đạo lại có hai Anan, thế thì ai mới là cái thể của ông? Nếu tỷ căn là một, thì thơm, thối không hai. Thối đã thành thơm, thơm đã thành thối, hai tánh đó đã không có, thì Giới do đâu mà thành lập?

“Lại nếu nhân hương trần mà sanh, thì Tỷ Thức đã nhân hương trần mà có, cũng như như nhân con mắt mà có Thấy, thì không thể thấy con mắt: Tỷ Thức nhân hương mà có, lẽ ra không biết được hương trần. Nếu biết được hương trần thì không phải do hương trần sanh ra, còn nếu không biết được hương trần thì không phải là Tỷ Thức. Hương trần mà không biết là có, thì cái Giới của hương không thành. Tỷ Thức mà không biết hương trần, thì cái Giới của nó không phải do hương trần mà lập. Đã không có cái Thức ở khoảng giữa thì nội căn, ngoại trần cũng không thành, thì các thứ Ngửi Biết kia rốt ráohư vọng.

“Thế nên, phải biết tỷ cănhương trần làm duyên, sanh ra Tỷ Thức Giới, cả ba chỗ đều không. Tức là ba thứ Tỷ Giới, Hương GiớiTỷ Thức Giới vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Cái Mũi là Căn. Hương là Cảnh. Ở giữa hai cái ấy là Thức. Phàm nói Giới là chuyên để chỉ Thức. Cái Thức này không ở nơi Căn mà sanh, không ở nơi Hương mà sanh, đại ý tương tợ, nhưng văn nghĩa có hơi phức tạp.

Mượn cảnh để phá căn, thì Thức chẳng phải do hư không sanh, mà là ở giữa. Ngay nơi cảnh mà phá căn, thì Thức chẳng do hòa hợp mà sanh ra, cũng là dễ thấy. Ban đầu phá phù trần căn, cái mũi thịt chẳng phải là cái Biết. Rồi phá thắng nghĩa căn, lại không phải hư không là cái Biết. Nếu cái Biết ở hương, thì can dự gì đến lỗ mũi? Mà đã sanh ở lỗ mũi thì cần gì đến vật ? Nếu đồng ngửi được cả thơm thối, thì phải có hai mũi, vậy thì cái căn đâu có đủ để căn cứ. Đã chỉ một cái mũi, sao lại có hai mũi, vậy cái cảnh cũng không đủ làm bằng cớ. Do đó, nói “Tỷ Thức do nơi Căn sanh”, là sai vậy.

Nếu nói “Tỷ Thức do hương trần sanh ra”, thì đáng lẽ không biết được hương, cũng như cái thấy do con mắt mà có ra thì không thể trở lại thấy con mắt. Nếu nói là Biết, thì hương trần tự có Thức, nào cần phải nói là sanh ra? Nếu nói là không Biết, thì không thể gọi là Thức, thì Giới do đâu mà lập? Do đó, nói rằng “Thức do Hương Trần sanh”, là sai lầm vậy.

Hương trần đã không thể tự biết mùi của nó, thì căn với trần lìa nhau, chứ không thể hợp được. Mà Thức nếu từ hương trần sanh ra, thì chẳng thể biết hương trần. Còn biết được hương trần, thì hẳn là chẳng phải từ hương sanh ra. Đó là căn, cảnh lìa nhau, vốn chẳng nương nhau vậy. Nên nói rằng “Tỷ Thức do Căn và Cảnh hợp nhau mà sanh”, là sai lầm vậy.

Cái Giới của hương không thành, thì không thể ở giữa. Đã không có cái giữa, lấy đâu có trong, có ngoài ! Rõ là Tỷ Thức hư vọng, vốn không xứ sở, bèn hiểu tánh Ngửi Biết là Không, chẳng có tánh Nhân Duyên hay Tự Nhiên nào khá được.

Phẩm Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm : Trưởng giả Chúc Hương Ưu Bát La Hoa khéo phân biệt mà biết tất cả mùi hương, cũng biết điều hòa tất cả Hương Pháp, cho đến nơi chốn bay ra của Hương Vương. Lại khéo biết trị các bệnh của hương, đoạn trừ các hương xấu, mà sanh ra Hoan Hỷ Hương, tăng Trí Huệ Hương, diệt Phiền Não Hương. Khiến ở Vô Vi mà sanh Ưa Luyến Hương, ở nơi Hữu Vi mà sanh Chán Lìa Hương, xả bỏ các Kiêu Dật Hương, phát tâm Niệm Phật Hương, chứng Giải Thoát Pháp Môn Hương, Thánh Sở Thọ Dụng Hương, Nhất Thiết Bồ Tát Sai Biệt Hương, Nhất Thiết Bồ Tát Địa Vị Hương.

Ngài dạy : “Ta chỉ biết môn Điều Hòa Hương Pháp này, cũng như các Bồ Tát lìa xa hết thảy các ác tập khí, chẳng nhiễm thế dục, cầu cắt lìa lưới phiền não của bọn ma, vượt khỏi các nẻo luân hồi. Lấy Trí Huệ Hương mà tự trang nghiêm, nơi mọi thế gian đều không nhiễm trước, thành tựu đầy đủ Giới “Không Chỗ Bám”, làm trong sạch Trí “Không Bám”, Hành cái “Không Bám Cảnh”, nơi hết thảy chốn đều không chỗ bám níu, tâm đều bình đẳng, không bám, không nương”.

Xưa, có một tôn giả đi qua hồ sen. Vị Thần sen trách rằng: “Không được trộm hương thơm của tôi”.

Vị tôn giả bèn hỏi: “Người đời qua lại, ai chẳng ngửi mùi thơm, đâu chỉ một mình ta ngửi trộm sao?”

Vị Thần nói: “Người đời tán loạn tâm, nên chẳng gọi là trộm. Tôn giả đây tâm trong sạch, nên có chút bám dính thì chẳng được!”

Tỷ Thức chưa dễ hàng phục vậy! Thế nên, hộ trì cái Tâm Vô Trướcngao du cõi đời, đó là “Khéo phân biệt mà biết tất cả mùi hương”, thì không gì mà chẳng có thể.

Kinh: “Anan, lại như chỗ ông bày tỏ: Thiệt cănvị trần làm duyên, sanh ra Thiệt Thức. Thức ấy nhân thiệt căn sanh ra, lấy thiệt căn làm Giới, hay nhân vị trần sanh ra, lấy vị trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân thiệt căn sanh ra, thì trong thế gian mía ngọt; mơ chua; hoàng liên đắng; muối mặn; tế tân, gừng, quế hết thảy đều không có Vị. Ông tự nếm cái lưỡi, là ngọt hay đắng? Nếu cái lưỡi là đắng, thì lấy cái gì để nếm cái lưỡi? Lưỡi chẳng thể tự nếm, thì lấy gì mà có hay biết? Nếu lưỡi không đắng, vị tự chẳng sanh ra, làm sao lập thành Giới?

“Nếu nhân vị trần mà sanh ra, thì Thiệt Thức đã là vị rồi, đồng như thiệt căn, không thể tự nếm, làm sao mà biết là vị hay chẳng phải vị? Lại tất cả các vị chẳng phải do một vật sanh ra. Các vị đã do nhiều vật sanh ra, thì cái Thiệt Thức nếu do vị trần sanh, cũng phải có nhiều tự thể. Nếu Thiệt Thứcmột thể và thể đó do vị sanh ra, thì các vị mặn, nhạt, chua, cay, các tướng khác nhau này phải chỉ là một vị, không thể phân biệt. Không có phân biệt, thì không có Thức, làm sao còn gọi là Thiệt Thức Giới? Chẳng lẽ hư không sanh ra cái Thức Phân Biệt của ông?

“Thế thì cái Thức ở giữa do thiệt cănvị trần hòa hợp mà sanh, vốn không tự tánh, làm sao mà cái Giới có được?

“Vậy nên phải biết: Thiệt căn, vị trần làm duyên, sanh ra Thiệt Thức, cả ba Xứ đều Không. Tức là Thiệt Giới, Vị Giới và Thiệt Thức Giới vốn chẳng phải Tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Ban đầu, bác bỏ “Nhân thiệt căn sanh”, là phá cái lý Tự Sanh. Thứ hai là bác bỏ “Nhân vị trần sanh”, là phá cái lý Cái khác sanh. Thứ ba là bác bỏ “Hư không sanh”, là phá cái lý Không nguyên nhân mà sanh. Thứ Tư bác bỏ “Lưỡi và vị hòa hợp mà sanh”, là phá cái lý Chung nhau sanh. Tức ở trong đó, vốn không tự tánh, thiệt căn chẳng thể tự nếm mùi, mùi vị cũng chẳng tự nếm biết, thì Thức do đâu mà sanh? Chính là hiển bày ý chỉ Vô Sanh. Biết Thiệt Thức vốn Vô Sanh, thiệt căn vốn tự trong sạch, tức là Diệu Chân Như Tánh vậy.

Xưa, có vị thiền sư ăn uống hỗn tạp, không chọn lựa, nhiều đệ tử bắt chước theo. Một bữa nọ, bày một bữa cúng ở chỗ thiêu xác người chết, rồi lấy thịt thiêu còn sót, gồm chung vào rồi ăn. Đệ tử đều ói mửa, chạy mất.

Sư bèn nói: “Ta nhiều đời thanh tịnh, nên mới không chọn lựa. Các ông có thể cùng với ta ăn món này, mới nên duy trì việc ăn uống”.

Từ đó, cả chúng sợ hãi mà lo vâng giữ Giới Luật.

Tổ Tào Sơn cũng ưa rượu.

Có vị tăng hỏi: “Áo linh không khoác thì như thế nào?”

Đáp: “Tào Sơn này trọn hiếu! [Đây nghĩa là xứng Tánh]”

Hỏi : “Trọn hiếu rồi thì như thế nào?”

Tổ đáp : “Tào Sơn khoái rượu từ Tôn Đảnh”.

đệ tử tên là Thuế Thanh, bạch hỏi: “Đệ tử cô bần, xin thầy cứu giúp”.

Tổ Sơn gọi lớn: “Thuế Xà Lê!”

Sư Thuế ứng tiếng: “Dạ!”

Tổ Sơn nói: “Rượu Thanh Nguyên [Phái Tào Động xuất phát từ Ngài Thanh Nguyên Hành Tư] trắng trong, uống rồi ba chén sao còn bảo chưa thấm môi!”

Tổ Huyền Giác nói : “Ở chỗ nào mà cho là có uống!”

Ba tắc này là: Tánh của Vị vốn Không, Thiệt Thức cũng vốn Không. Liễu đạt mới gọi rằng “Biết mùi vị”.

Kinh : “Anan, lại như chỗ ông bày tỏ: Thân cănxúc trần làm duyên sanh ra Thân Thức. Thân Thức này do thân căn sanh ra, lấy thân căn làm Giới, hay nhân xúc trần sanh ra, lấy xúc trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân thân căn sanh ra, mà không có hai cảm xúc hợp và lìa, thì thân căn còn biết gì? Nếu nhân xúc trần sanh ra, mà không có thân căn của ông, thì có ai chẳng có thân mà lại biết chuyện hợp, lìa được?

“Anan, vật thì không biết cảm xúc, thân căn có biết mới có cảm xúc. Tức nơi cảm xúc, biết có thân. Tức nơi thân căn, mà biết cảm xúc. Nhưng nơi Xúc, thì không phải là thân, nơi thân thì không phải là Xúc. Hai tướng thân và xúc, vốn không xứ sở. Nếu Xúc hợp với thân, thì làm thể tánh của thân. Lìa thân thì chẳng có thể tánh nào, bèn như tướng hư không. Nội căn, ngoại trần đã không thành, cái Thức ở giữa làm sao mà lập? Giữa chẳng lập được, trong ngoài đều là Tánh Không, thì cái Thân Thức của ông do đâu mà lập thành Giới?

“Thế nên, phải biết: Thân cănxúc trần làm duyên, sanh ra Thân Thức, cả ba chỗ đều Không. Tức là cả ba thứ Thân Giới, Xúc Giới và Thân Thức Giới vốn chẳng phải Tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Câu “Vật thì không biết cảm xúc”, nghĩa là vật có thể chạm biết. Vật thì thật, cái Biết thì hư. Cái thật với cái hư chẳng có tiếp xúc với nhau. Cho nên, vật thì chỉ tiếp xúc với vật, không thể tiếp xúc với cái Biết. Một chữ Biết này bày rõ ràng ra cái Pháp Thân trong sạch, chẳng phải là chỗ mà sự chạm xúc có thể tới được.

Cái Thân biết có cảm xúc là do sắc thân phân biệt mà Biết, lấy hai chỗ hợp, lìa làm duyên. Cảm xúc không lìa thân căn, thân căn cũng không lìa cảm xúc. Nhưng nói cảm xúc thì chẳng phải là thân căn, nói thân căn thì chẳng phải là cảm xúc, hai cái ấy thật là không thể xác định. Do đó, nếu hợp lại thì chỉ có một thân thể, mà cái Cảm Xúc ở tại đâu? Nếu lìa nhau, thì Xúc không còn, đồng như hư không vậy. Cả hai đều không có ở đâu, trong ngoài đều không thành tựu. Thân và Xúc đều không nơi chốn, thì Thân Thức do đâu mà thành lập? Đã không có cái Thức ở giữa, thì căn và cảnh rốt ráo là không. Thế nên biết cái Thân Thức Giới chỉ là hư vọng.

Thiền sư Nam Nhạc Huệ Tư đã đắc túc mạng thông, bỗng nhiên lại bị nghiệp chướng khởi lên, tay chân rũ liệt, không thể đi đứng. Ngài tự nghĩ rằng: “Bệnh từ nghiệp sanh, nghiệp từ tâm khởi. Nguồn tâm vốn chẳng khởi, ngoại cảnh đâu có hình trạng gì? Bệnh, nghiệp và thân đều như bóng mây!” Quán như thế, tướng điên đảo diệt, nhẹ nhàng yên ổn như xưa. Như Ngài mới có thể nói là rõ thấu Thân Thứchư vọng vậy.

Thiền sư Hưng Dương Phẩu nằm bệnh.

Ngài Đại Dương đến thăm, hỏi: “Thân này như bọt huyễn, mà có ở trong bọt huyễn mới thành biện xét. Nếu không có cái bọt huyễn này, thì chuyện đại sự chẳng do đâu mà nghiệm xét. Nếu muốn xét chuyện đại sự, thì Thức lại giữ lấy cái bọt huyễn này, làm sao đây?”

Tổ Phẩu nói: “Vẫn còn là chuyện bên này”.

Đại Dương hỏi : “Thế chuyện bên kia thì làm sao?”

Tổ Phẩu nói : “Quanh đất vừng hồng đẹp, đáy biển chẳng trồng bông” [“Táp địa hồng luân tú, hải để bất tài hoa”].

Đại Dương cười nói : “Ông còn tỉnh táo không?”

Tổ Phẩu quát : “Sắp nói ta quên mất à!”

Rồi liền tịch.

Như Tổ Hưng Dương Phẩu có thể nói là thấu rõ cái Pháp Thân Hướng Thượng Sự vậy.

Có vị sư hỏi Ngài Đại Long: “Sắc thân thì hư hoại, như thế nào là cái Pháp Thân kiên cố?”

Tổ Long nói: “Hoa núi nở dường gấm. Nước khe trong như lam”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Hỏi, từng chẳng biết

Đáp, lại chẳng hiểu

Trăng lạnh gió cao, đỉnh xưa thông lạnh

Cười vui thay

Giữa đường gặp được người đắc đạo

Chẳng lấy nói, im đối đãi cùng

Tay cầm roi bạch ngọc đánh vụn ngọc Ly Châu

Đánh chẳng nát, thêm dấu vết!

Nước có hiến chương, thêm ba ngàn điều tội!”.

Theo bài tụng này thì cái Kiên Cố Pháp Thân còn phải đập cho nát, huống là cái Sắc Thân đó ư?

Kinh: “Lại như chỗ ông bày tỏ: Ý cănpháp trần làm duyên, sanh ra Ý Thức. Thức đó là nhân ý căn sanh ra, lấy ý căn làm Giới, hay nhân pháp trần sanh ra, lấy pháp trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân ý căn sanh ra, thì trong ý ông chắc phải có chỗ suy nghĩ mà phát rõ ra cái ý của ông; nếu không có các pháp trần thì ý không có chỗ sanh ra. Lìa các duyên trần, ý căn còn không có hình tướng, thì cái Thức đem dùng vào chỗ nào?

“Lại cái Thức Tâm của ông cùng các sự nghĩ suy, các sự rõ biết là đồng nhau hay khác nhau. Nếu đồng với ý căn, tức là ý căn rồi, làm sao lại do ý căn sanh ra? Nếu khác mà không đồng với ý căn, thì lẽ ra không có biết gì. Nếu không có chỗ Biết, thì làm sao lại do ý căn sanh ra? Còn nếu có chỗ Biết, làm sao biết được ý căn? Khi hai tánh đồng nhau và khác nhau đều không thành, Giới do đâu mà lập?

“Nếu Ý Thức do pháp trần sanh ra, thì các pháp trong thế gian không ngoài năm Trần. Ông hãy xem các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc đối với năm căn đều có hình tướng rõ ràng, chẳng phải chỗ thu nhiếp của ý căn. Nếu Ý Thức của ông quyết định nương nơi pháp trần mà sanh ra, thì ông hãy xem xét kỹ, mỗi pháp có hình trạng gì? Nếu lìa ngoài sắc không, động tĩnh, thông bít, lìa hợp, sanh diệt, vượt ngoài các tướng này, rốt ráo là không chỗ đắc. Sanh thì các pháp Sắc Không đều sanh ra, diệt thì các pháp Sắc Không đều diệt. Các nguyên nhân đã không, thì cái thức có là do chúng sanh ra, nào có hình tướng gì đâu? Tướng trạng không thể có, Giới do đâu mà sanh?

“Thế nên, phải biết: Ý căn, pháp trần làm duyên, sanh ra Ý Thức, ba chỗ này đều không. Tức là ba thứ Ý Giới, Pháp GiớiÝ Thức Giới vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng: Cái Ý Thức Giới này là Tánh Hiểu Biết, Phân Biệt của Thức Thứ Sáu. Đã lấy sự Biết do Phân Biệt làm tánh, thì lìa ngoài pháp hẳn không có duyên, ý bèn chẳng sanh. Lìa Duyên thì vô hình, vậy Ý Thức dùng vào đâu? Thế thì cái Thức duyên theo pháp này, rõ ràng không sanh ra nơi ý căn. Nếu nói ý căn hay phân biệt mà sanh ra Ý Thức, vậy thì Thức Thứ Bảy làm chỗ nương cho sự nhiễm, tịnh và Thức Thứ Tám là Thức Tâm làm chỗ nương dựa căn bản của mọi Thức, đối cùng Thức Thứ Sáu có tánh hiểu biết do phân biệt là đồng hay là khác?

Kinh Lăng Già nói: Tâm (Thức Thứ Tám) hay tích nhóm Nghiệp Ý (Thức Thứ Bảy), hay mở rộng sự tích nhóm, hiểu biết do phân biệt gọi là Thức, đối đãi với hiện cảnh thì có năm Thức.

Luận Duy Thức nói: Tập Khởi gọi là Tâm, suy lường gọi là Ý, hiểu biết cảnh gọi là Thức. Chỉ là một pháp mà khác tên.

Đã duy chỉ một pháp, đều có thể gọi là Tâm, đều có thể gọi là Ý, đều có thể gọi đó là Thức. Nhưng sự tinh vi ấy có thể biện biệt, có nhiều thứ ấy mà đặt tên vậy.

Ở trong Thức Thứ Tám, Ý và Thức đều không còn, nên chỉ có thể gọi là Tâm.

Ở Thức Thứ Bảy, chẳng phải Tâm, chẳng phải Thức, chỉ có thể gọi là Ý.

Ở Thức Thứ Sáu, thì Tâm và Ý đều đối đãi với Cảnh, nên gọi là Thức Phân Biệt sự vật.

Kỳ thật chỉ là một. Như biển khởi sóng: không khác cũng không không khác. Thức Thứ Sáu đuổi theo Trần sanh ra Gió Cảnh Giới, liền khởi động các sóng Suy Lường của Thức Thứ Bảy, mà thật chẳng rời cái biển lặng chứa của Thức Thứ Tám. Ba Thức này chẳng phải đồng, chẳng phải khác, cứ hãy tạm để đó.

Bây giờ, nói về chuyện Ý sanh ra Thức. Nếu nói Thức đồng với Ý thì Thức là Ý, làm sao gọi Ý là cái Năng Sanh và Thức là cái Được Sanh ? Nói là đồng thì không được vậy. Nếu nói Thức khác với Ý, hoàn toàn chẳng đồng thì một cái thuộc hữu tình, một cái thuộc vô tình, lẽ ra không có chỗ Biết, vậy bảo khác nhau thì không thể được. Nếu không có chỗ Biết, thì chắc chẳng phải do Ý sanh. Ý phân biệt được cái chỗ Sở Sanh thì phải có cái Thức ở trong ấy. Nếu có chỗ để biết, thì khi Ý sanh mà không có pháp nào để duyên, thì chỉ có cái Ý làm sao mà tự biết cái Ý ? Nếu cho là Biết cái Ý, thì cái Ý trở lại thành cảnh, không còn là căn được. Nếu không biết cái Ý, lại giống như không có Thức, thì sao nói là Ý sanh Thức?

Rời ngoài pháp mà tìm cái Thức, rất khó hình dung: nếu nói là đồng, thì không còn có thể gọi là Sanh ra; nếu gọi là khác thì không thể gọi được là Thức. Thế là hai tánh đồng nhau, khác nhau đều không thành tựu. Thức không có chỗ định, Giới làm sao lập thành? Do đó mà nói Thức do căn sanh là hư vọng vậy.

Nếu nói Thức duyên với pháp trần mà hiện, nhân pháp mà có sanh ra, thế thì phải có pháp khá hình dung ra được rồi mới có thể làm Nhân. Nay các pháp của thế gian chẳng thể ngoài năm trần, đối đãi năm căn, và làm cái sở nhân của năm Thức. Ý có thể lìa ngoài năm Trần này mà riêng có tướng trạng của các pháp để làm sở nhân không? Cái nội cảnh mà Ý tự duyên, tuy không nhờ năm căn bên ngoài nhưng rốt cuộc không thể ra khỏi bóng dáng của Sắc Không, sanh diệt... các pháp. Dầu có duyên các pháp xuất thế gianPhi Sắc, Phi Không, Bất Sanh Bất Diệt nhưng cái phi sắc phi không cũng do Sắc Không mà hiển, cái bất sanh bất diệt cũng do sanh diệt mà bày. Rốt là chẳng có thể rời ngoài Sắc Không, sanh diệt mà có riêng được cái pháp trần để làm nhân sanh Thức. Ở nơi năm Trần mà tìm pháp thì Trần là nhân của ngũ căn, chẳng phải là nhân của Ý. Mà rời năm Trần để cầu pháp, thì không có pháp nào để được. Đã không thể đắc, thì không có Nhân vậy. Nhân mà không có, lấy gì sanh ra? Nếu không có Nhân mà nói là có Thức sanh ra, thì Thức này chẳng thể nào phân biệt các pháp. Còn nếu phân biệt được các pháp thì tạo ra được tướng trạng gì? Tướng trạng không có, Thức thật chẳng sanh. Nên nói là nhân pháp mà Thức sanh là sai lầm vậy. Đã chẳng phải Ý sanh, lại chẳng phải Pháp sanh, thì Ý Thức ở tại chốn nào? Không có nơi chốn, tức là chốn Chân Thật vậy.

Xưa, Thượng Tọa Quốc Thanh Tịnh hỏi Tổ Trường Sa: “Như trong kinh dạy : không thể lấy cái tâm có chỗ biết mà đo lường nổi cái Tri Kiến Vô Thượng của Như Lai, thế thì làm sao?”

Tổ Sa nói: “Ông hãy nói xem: cứu xét cho cùng cái tâm có chỗ biết này, lại có đo lường nào được nổi chăng? Theo đó mà tin nhập”.

Sau này, có vị tăng hỏi: “Đệ tử mỗi đêm ngồi thiền, tâm niệm tán loạn, chưa biết cách nào nhiếp phục. Xin thầy chỉ bảo”.

Ngài Quốc Thanh Tịnh trả lời: “Nếu ban đêm ngồi tịnh mà niệm niệm lăng xăng, thì lấy cái tâm lăng xăng đó cứu xét cái chỗ lăng xăng. Thấy là nó không có xứ sở, thì cái tâm niệm lăng xăng đó đâu còn! Cứ xét ngược lại cái tâm, thì cái tâm cứu xét đó đâu có tại chỗ nào. Trí chiếu soi vốn không, cái cảnh để duyên cũng tĩnh lặng vậy. Chiếu mà chẳng chiếu, tuyệt không có cảnh để chiếu soi vậy. Cảnh, Trí đều tịch diệt, tâm lượng an nhiên. Ngoài chẳng tìm cầu lấy sự tán loạn, trong chẳng trụ nơi định tĩnh. Hai đường dứt bặt, một Tánh suốt nhiên. Đây là yếu đạo về nguồn vậy”.

Tổ Dược Sơn đang ngồi, có vị tăng hỏi : “Ở cái chỗ bằng phẳng, suy nghĩ cái gì?”

Tổ Sơn nói : “Suy nghĩ cái thật chẳng có suy nghĩ”.

Hỏi : “Cái chẳng suy nghĩ đó, làm thế nào suy nghĩ ?”

Tổ Dược Sơn nói : “Tuyệt chẳng suy nghĩ !”

Có vị tăng hỏi thiền sư Thục Châu Tây : “Thế nào là chỗ Phi Tư Lượng?”

Ngài đáp : “Ai thấy một chấm trong đêm tối giữa hư không?”

Ngài Đơn Hà tụng rằng :

“Một điểm linh minh, sáu chẳng thâu

Rõ thay, nào phải sững mắt vào

Tin tức trong kia, người khó rõ

Chỉ có hư không một điểm mù”.

(Nhất điểm linh minh lục bất thâu

Chiêu nhiên hà dụng cánh ngưng mâu

Cái trung tiên tức nhân nan ủy

Độc hữu hư không ám điểm đầu).

Cho nên, rõ được chỗ Tâm Thức chẳng thể đến được, bèn thấu suốt nguồn cội của Thức vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22001)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15877)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14900)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18734)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14315)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18449)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14271)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13422)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13400)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11692)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13108)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13543)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13807)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13122)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14885)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16051)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10969)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16288)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11734)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17421)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12772)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13567)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12765)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14760)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16220)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13001)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11967)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12629)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12758)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12667)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14006)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 13982)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16332)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12263)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14264)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11129)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10901)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13095)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13764)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13035)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12866)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13378)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12566)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10111)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13756)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10114)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13565)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16142)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11851)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12839)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11540)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12559)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10680)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10843)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10839)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11783)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12630)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10965)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12490)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11211)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant