Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

02. Thu Bảy Đại

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 13725)
02. Thu Bảy Đại

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

Mục 7: Tóm Thu Về Như Lai Tạng


II. THU BẢY ĐẠI

Kinh: Ông Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, Như Lai thường nói về Nhân Duyên Hòa Hợp rằng: Tất cả các thứ biến hóa trong thế gian đều do bởi bốn Đại hòa hợp mà phát hiện ra. Thế sao Như Lai đều bài bác cả hai nghĩa Nhân Duyên và Tự Nhiên? Nay tôi không biết nghĩa ấy thế nào, xin Phật rủ lòng thương xót khai thị cho chúng sanh nghĩa rốt ráo của Trung Đạo, không còn các pháp hý luận”.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo Ông Anan rằng: “Trước ông đã chán lìa các pháp Tiểu Thừa Thanh Văn, Duyên Giácphát tâm quyết cầu Bồ Đề Vô Thượng, nên ta nay vì ông mà khai thị cái Đệ Nhất Nghĩa Đế, sao ông lại còn đem những thứ vọng tưởng Nhân Duyên, hý luận của thế gian mà tự trói buộc? Ông tuy là nghe nhiều mà như người nói tên vị thuốc, đến khi thuốc thật ở trước mắt lại chẳng hề phân biệt được. Như Lai bảo thế thật là đáng thương xót! Nay ông hãy nghe kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt khai thị. Cũng để cho những người tu Đại Thừa mai sau thông đạt cái Thật Tướng”.

Ông Anan lặng yên, kính vâng Thánh Chỉ của Phật.

Thông rằng: Ông Anan mong Thế Tôn khai thị Trung Đạo. Nếu cho thật tại là Nhân Duyên Hòa Hợp của thế gian, thì mắc vào Có (Hữu). Nếu bài bác cả hai thứ Nhân DuyênTự Nhiên thì lại chìm đắm vào Không. Cái chẳng phải Có, chẳng phải Không mới là Trung Đạo. Ông không biết cái Bồ Đề Vô Thượng là cái Trung Đạo không chỗ bám nắm, mới là Đệ Nhất Nghĩa Đế vậy. Cái Đệ Nhất Nghĩa Đế này siêu khỏi mọi Ấm, Nhập, Xứ, Giới chẳng phải phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên. Thấy các Tướng chẳng phải Tướng, tức đó là Đại Thừa Thật Tướng.

Ông Anan muốn rời bỏ Tiểàu Thừa mà cầu cái Bồ Đề Vô Thượng. Nay chỉ cho đó là Tánh Diệu Chân Như, thì hoang mang ngơ ngác, chẳng hiểu ra sao, như người nói ra tên thuốc, mà cái chơn dược ở ngay trước mắt lại chẳng có hay. Thật đáng thương xót! Than ôi, thuốc nào có dễ biết!

Bồ Tát Văn Thù một ngày nọ bảo đồng tử Thiện Tài đi hái thuốc.

Ngài nói : “Cái gì là thuốc hãy hái mang về”.

Thiện Tài xem khắp đại địa không có gì chẳng phải là thuốc, trở về bạch rằng : “Không có cái gì mà chẳng phải là thuốc”.

Ngài Văn Thù nói : “Cái gì là thuốc hái mang về đây”.

Thiện Tài bèn ngay trên mặt đất ngắt lên một cọng cỏ, đưa cho Ngài Văn Thù. Ngài Văn Thù cầm lấy, đưa lên cho đại chúng xem, rồi nói: “Thuốc này cũng hay giết người, cũng hay cứu người”.

Tổ Vân Môn nói: “Thuốc và bệnh hiện hữu vì nhau, khắp cõi đất là thuốc, cái gì là tự kỷ?”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Khắp cõi đất là thuốc

Xưa nay sao quá lầm

Đóng cửa chẳng làm xe (để dùng)

Đường thông tự trống rộng

Lầm, lầm !

Lỗ mũi xa trời cũng xuyên suốt!”.

Theo ý bài tụng ngày thì chân dược hiện tiền ấy cũng cần mửa ra hết, huống là cái chuyện chẳng thể phân biệt của Anan!

Kinh: “Anan, như chỗ ông nói: Tứ Đại hòa hợp phát hiện ra các thứ biến hóa trong thế gian. Anan, nếu các Đại ấy tánh chẳng phải hòa hợp thì không thể trộn lẫn với các Đại khác, cũng như hư không không thể hòa hợp được với các sắc. Nếu tánh của các Đại là Hòa Hợp, thì cũng đồng như các thứ biến hoá, trước sau hóa thành lẫn nhau, sanh diệt nối nhau, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, sanh sanh diệt diệt như vòng lửa quay tròn, chưa hề ngừng nghỉ. Anan, như nước thành băng, băng trở lại thành nước.

Thông rằng: Nếu nói tứ Đại chẳng phải hòa hợp, thì chẳng phải nghĩa Chân Như tùy duyên, đồng như ngoan không mà thôi. Nếu nói tứ Đại nhất định phải hòa hợp, thì chẳng phải là nghĩa Chân Như bất biến, giống như biến hóa mà thôi. Như nước thành băng, băng trở lại thành nước, tứ Đại vốn là Như Lai Tạng Tánh, chẳng phải ngoài nước mà có băng. Nước hòa với cái gì mà thành băng? Băng hòa với cái gì mà thành nước?

Vốn chỉ là một vật, không có cái gì khác hòa lẫn vào. Tìm cầu tướng hòa hợp rõ là chẳng thể có, do đó, thật chẳng phải hòa hợp mà cũng chẳng phải không hòa hợp. Chỉ vì mê thì Chân Nhưbốn Đại: như nuớc thấy thành băng. Ngộ, thì tứ ĐạiChân Như: như băng vốn là nước. Nước vốn là một mà thôi vậy.

Có vị tăng hỏi Tổ Lâm Tế : “Thế nào là bốn cảnh vô tướng?”

Tổ Lâm Tế nói : “Ông khởi một niệm tâm Nghi, bèn bị Đất ngăn ngại. Ông khởi một niệm tâm Ái, bèn bị Nước nhận chìm. Ông khởi một niệm tâm Sân, liền bị Lửa cháy thiêu. Ông có một niệm tâm Hỷ, liền bị Gió thổi bay. Nếu hay rõ ràng được như thế, Cảnh nào trói buộc nổi? Chốn chốn đều dùng được Cảnh: Đông mọc Tây lặn, Nam mọc Tây chìm, giữa nổi bên chìm, bên nổi giữa chìm. Đi trên nước như trên đất, vào đất như nước. Do sao mà vậy? Vì thấu suốt bốn Đại như mộng như huyễn vậy. Này các đạo lưu! Nay đây cái nghe pháp là ông, chẳng phải là tứ Đại của ông, mà hay dùng tứ Đại của ông. Thấy được như thế, thì bèn đi hay ở đều tự do”.

Xem như lời Tổ Lâm Tế thì đi đâu cũng là nước, làm gì có băng đâu?

Tổ Dược Sơn nhân có thí chủ cúng dường bộ thường phục. Đưa ra trước chúng, nói rằng: “Pháp Thân có đủ bốn Đại hay không? Nói được, thì cho một áo lá”.

Ngài Đạo Ngô nói: “Tánh đất chẳng phải là Không. Không chẳng phải là tánh đất. Đó là Đại Địa. Ba Đại kia cũng thế”.

Tổ Sơn nói: “Cho ông một cái áo lá”.

Chỗ thấy của Ngài Đạo Ngô sao lại trái ngược với kinh này? Thử tham xem!

Kinh: “Ông hãy xét cái tánh của Địa Đại: thô lớn thì làm đất liền, nhỏ nhặt thì làm vi trần, cho đến lân hư trần, do chia chẻ cái sắc cực vi nhỏ nhất làm bảy phần mà thành. Nếu chẻ lân hư trần nữa, thì thật là tánh hư không.

“Anan, nếu cái lân hư trần đó chẻ ra thì thành hư không, vậy thì biết hư không sanh ra sắc tướng. Nay ông hỏi rằng: Do hòa hợp mà sanh ra các tướng biến hóa trong thế gian, thì ông hãy xét một cái lân hư trần dùng bao nhiêu hư không hòa hợp lại mà có? Không lẽ lân hư trần hợp lại thành lân hư trần? Mà lân hư trần đã chẻ ra được thành hư không, thì dùng bao nhiêu sắc tướng để hợp thành hư không? Nếu sắc hợp lại thì hợp sắc không thể thành hư không. Nếu hư không hợp lại, thì hợp hư không làm sao ra thành sắc? Sắc có thể chẻ ra được, chứ hư không làm sao mà hợp lại được?

“Ông vốn chẳng biết, trong Như Lai Tạng: Tánh Sắc là Chân Không, Tánh KhôngChân Sắc, bản nhiên thanh tịnh, tròn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh ứng ra chỗ hay biết, theo nghiệp mà hiện bày. Thế gian không biết, lầm cho là Nhân Duyên hay Tự Nhiên. Đó đều là thức tâm phân biệt, đo lường: chỉ có lời nói, danh tự, toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng: Bài tụng Pháp Giới rằng:

“Có ai muốn biết lý Chân Không

Chân Như trong tánh hiện khắp ngoài

Tình với vô tình chung một thể

Chốn chốn đều đồng Pháp Giới Chơn!”.

Đây là yếu chỉ của bảy Đại.

Chân Không là cái Thể Nhất Như vậy. Bảy Đại là cái Dụng duyên theo nghiệp vậy. Thể, Dụng không hai, nương nhau mà hiển, chẳng lìa Diệu Tánh, nên mỗi mỗi đều là Tánh. Duy chỉ một Tánh. Không là Tánh Không, Sắc là Tánh Sắc, bèn Tức Không, Tức Sắc, đó là Diệu Hữu, đó là Diệu Chân Như Tánh vậy. Không sa vào Hữu, Vô nên nói là thanh tịnh, mà chưa từng chẳng Hữu, Vô nên gọi là Bản Nhiên. Là trong sạch, tức nhân duyên chẳng thể ô nhiễm. Là Bản Nhiên, tức chẳng phải hòa hợp mà thành. Cái gì mà từ nhân duyên hay hòa hợp sanh, đó chỉ là hình tướng, có nơi chốn làm sao mà đầy khắp pháp giới? Duy chỉ chẳng từ nhân duyên hay hòa hợp mà sanh thì không hình tướng, không xứ sở nên toàn khắp pháp giới. Toàn khắp pháp giới là Tánh, thì có gì chẳng phải là Thất Đại? Toàn khắp pháp giớiThất Đại thì có gì chẳng phải là Tánh?

Tâm Như Lai chỉ một vị Thanh Tịnh, chỉ một vị Bản Nhiên, chỉ một vị Toàn Khắp nên không thể biết, không thể lường. Tâm của chúng sanh thì ở nơi cái Thanh Tịnh ấy lại có thời gianô nhiễm. Ở trong cái Bản Nhiên ấy lại có thời gian mà chẳng như nhiên. Ở trong cái Toàn Khắp ấy, lại có thời gian mà hạn hẹp. Tùy cái tâm năng tri, xứng vừa với cái lượng sở tri. Biết cho lắm thì tích tụ thành nghiệp, nghiệp tích tụ thành quả, có thiện, có ác mà biến tạo ra cái Y Báo, Chánh Báo mười cõi. Tâm của chúng sanh tán loạn không bờ nên nghiệp của chúng sanh cũng đầy dẫy không bờ. Tâm ấy nếu không có cái Tánh Toàn Khắp pháp giới làm Thể thì làm sao tùy nghiệp mà phát hiện, để càng phát ra thì càng vô cùng ư?

Nghiệp lực của chúng sanh mỗi mỗi chẳng đồng. Nhưng đồng ở trong cái Thanh Tịnh Bổn Nhiên, một mảy lông cũng chẳng hề thêm bớt, nên nói rằng xuẩn động hàm linh đều có Phật Tánh. Thế gian mê lầm chẳng ngộ Tam Giới Duy Tâm, Vạn Pháp Duy Thức. Thế nên, ở nơi những sự việc phát hiện ra theo nghiệp, thấy ra là có nhân duyên sanh, mà làm cho là tánh nhân duyên; còn thấy ra là không có nhân duyên sanh thì lầm cho là tánh Tự Nhiên. Chẳng rõ cái Thanh Tịnh Bổn Nhiên thì sự Có Không đều lìa, cả Nhân Duyên hay Tự Nhiên đều không có ở nơi nào để bám níu.

Nói là Nhân Duyên sanh ư? Thế thì lân hư duyên với cái gì để sanh ra hư không, hư không duyên với gì mà sanh ra lân hư? Chỉ có hư không duyên với hư không, chỉ có sắc mới duyên với sắc. Dù cho lân hư chẻ ra thành hư không, thì phải bao nhiêu hư không để hiện thành lân hư. Lân hư chẳng phải do hư không mà có, thì hư không cũng chẳng phải nhân lân hư chẻ thành. Sắc, Không đã chẳng thể sanh lẫn nhau, thì sự sanh ra của Đại Địavô tự tánh.

Thế nên, nói Nhân Duyên hòa hợp sanh là sai lầm vậy.

Nói là Tự Nhiên sanh ư? Hư không nào có vô cớ mà có hư không, sắc nào có vô cớ mà có sắc. Chẳng có nhân chẻ lân hư, thì nào có thấy được hư không? Chẳng nhân gom tụ lân hư, làm sao thành Đại Địa? Thế thì sự sanh ra của Đại Địa nào phải không có nguyên nhântự nhiên bỗng có đâu?

Do đó, nói Tự Nhiên sanh là sai lầm.

Cả hai thuyết đều là do Thức Tâm phân biệt suy lường, không phải Nhân Duyên mà gượng nói Nhân Duyên; không phải Tự Nhiên mà gượng cho là Tự Nhiên, chỉ là lời nói, toàn là hý luận không có căn cứ. Nào có biết rằng Như Lai Tạng Tánh chẳng có khởi lên đối với cái thấy, chẳng bám vào cái tướng. Không khởi nơi cái thấy, cho nên suy tính không thể tới nổi. Không bám nơi cái tướng nên lời nói không thể thấu đến. Đó là cái chỗ mà tâm hành xứ diệt [Mất dấu], ngôn ngữ hết đường”, ấy mới là Thật Tướng, mới là Đệ Nhất Nghĩa Đế vậy.

Thiền sư Tần Bạt Đà hỏi pháp sư Sanh : “Thầy giảng kinh luận gì?”

Thầy Sanh đáp : “Kinh Đại Bát Nhã”.

Sư Đà nói : “Làm thế nào nói nghĩa Sắc Không?”

Thầy Sanh đáp : “Các vi trần tụ lại là Sắc, các vi trần vô tự tánh là Không”.

Sư Đà nói : “Vi trần chưa tụ, gọi là gì ?”

Thầy Sanh không giãi bày được.

Thiền sư Đà lại hỏi : “Còn giảng kinh nào khác nữa ?”

Thầy Sanh đáp : “Kinh Đại Niết Bàn”.

Sư Đà nói : “Nói nghĩa Niết Bàn như thế nào?”

Thầy Sanh đáp : “Niết mà chẳng sanh, Bàn mà chẳng diệt, nên gọi đó là Niết Bàn”.

Sư Đà nói : “Cái ấy là Niết Bàn của Như Lai, cái gì là Niết Bàn của pháp sư?”

Thầy Sanh đáp : “Nghĩa của Niết Bàn há có hai sao? Tôi chỉ như thế này, chưa hiểu thiền sư nói Niết Bàn như thế nào?”

Sư Đà đưa cây hốt như ý lên, rồi nói : “Thấy chăng?”

Đáp : “Thấy”.

Sư Đà nói : “Thấy cái gì?”

Đáp : “Thấy cái hốt như ý trong tay thiền sư”.

Sư Đà ném cái hốt như ý xuống đất, rồi hỏi : “Thấy không?”

Đáp : “Thấy”.

Sư Đà nói : “Thấy cái gì?”

Đáp : “Thấy cái hốt trong tay thiền sư rớt xuống đất”.

Thiền sư chê rằng: “Xem qua chỗ thấy hiểu của ông, chưa ra khỏi đám thường tình, sao gọi được là làm ồn náo vũ trụ” [Giảng kinh].

Rồi phất tay áo bỏ đi.

Các đệ tử của pháp sư nghi ngờ chưa dứt, bèn chạy theo níu thiền sư Đà lại, hỏi: “Thầy tôi nói Sắc Không, Niết Bàn chẳng khế hợp, chưa rõ thiền sư nói nghĩa Sắc Không như thế nào?”

Thiền sư Đà nói: “Ta chẳng nói thầy các con thuyết không được đúng, nhưng thầy các con chỉ nói Sắc Không trên quả vị, mà chẳng biết nói cái Sắc Không ngay chỗ nguyên nhân”.

Đệ tử thưa: “Như thế nào là Sắc Không ngay chỗ nguyên nhân?”

Thiền sư Đà nói: “Một vi trần Không nên chúng vi trần Không, chúng vi trần Không nên một vi trần Không. Trong chúng vi trần Không, không có một vi trần”.

Đây không phải là lời thiền sư Đà đặt ra, vì kinh nói : Một căn thanh tịnh nên các căn thanh tịnh. Các căn thanh tịnh nên một căn thanh tịnh. Trong một căn thanh tịnh không có các căn. Trong các căn thanh tịnh không có một căn.

Lấy chỗ này phát minh thì chẳng phải khó hiểu. Bèn cùng với “Tánh Sắc Chân Không, Tánh Không Chân Sắc” chỉ ngay đường vào.

 

Kinh : “Anan, tánh Lửa vô ngã, nhờ ở các duyên mà hiện. Ông hãy xem các nhà chưa nấu ăn ở trong thành, khi muốn nấu bếp thì tay cầm kính dương toại đưa ra ngoài mặt trời mà cầu lửa.

“Anan, phàm gọi là Hòa Hợp thì như Ta, ông và một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo nay hợp thành một chúng. Chúng tuy là một, nhưng gạn xét về căn bản, thì mỗi người đều có tánh, đều có chỗ sanh, tên hiệu, họ hàng của mình. Như Ông Xá Lợi Phất thuộc dòng Bà La Môn, Ông Ưu Lâu Tần Loa thì thuộc dòng Ca Diếp Ba, cho đến Ông Anan thì thuộc dòng Cù Đàm.

“Anan, nếu tánh Lửa nhân Hòa Hợp mà có ra, thì khi người kia cầm kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ trong kính mà ra, do từ bùi nhùi mà có hay là từ mặt trời mà đến?

“Anan, nếu từ mặt trời mà đến, lửa ấy đã đốt được bùi nhùi trong tay ông, thì những rừng cây mà ánh sáng mặt trời đi qua phải bị đốt cháy cả. Nếu từ trong kính mà ra, thì lửa ấy đã có thể từ nơi kính ra mà đốt cháy bùi nhùi, làm sao kính lại không bị chảy. Cho đến cả tay cầm kính cũng không thấy nóng, thì làm sao kính chảy ra được. Nếu do bùi nhùi sanh ra, thì cần gì ánh sáng mặt trời và kính tiếp xúc với nhau, rồi lửa mới sinh. Ông hãy xét cho kỹ: kính thì do tay cầm, ánh sáng mặt trời thì từ trên xuống, còn bùi nhùi thì từ đất sanh, vậy lửa từ phương nào đến đây? Mặt trời và kính xa nhau, chẳng có hòa, chẳng có hợp không lẽ lửa kia không do đâu mà tự có?

“Ông còn không biết rằng: Trong Như Lai Tạng, tánh Hỏa là Chân Không, tánh Không là Chơn Hỏa, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà ứng vừa với chỗ hay biết.

“Anan, ông phải biết: Người đời cầm kính ở một chỗ thì một chỗ lửa sanh, khắp pháp giới cầm kính thì khắp pháp giới có lửa. Lửa khắp thế gian mà nào có nơi chốn, chỉ theo Nghiệp phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh Nhân Duyên và tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là sự phân biệt, đo lường của thức tâm: chỉ có lời nói, danh tự, toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng: Ngài Long Thắng nói: “Nếu các pháp là thật có, thì chẳng cần dùng tâm thức mới biết là có tướng. Nếu dùng tâm thức mới biết là có, ấy là chẳng phải có. Như tướng cứng của Đất, phải dùng thân căn, thân thức mới biết là có. Còn nếu khôngthân căn, thân thức thì không thấy có tướng cứng”.

Hỏi rằng: “Thân căn, thân thức thì có khi cảm biết, có khi không cảm biết, còn đất thì vẫn luôn luôn có tướng cứng chứ?”

Đáp rằng: “Hoặc trước đã tự nhiễm biết cái tướng cứng, hoặc nghe người nói mới biết là có tướng cứng. Nếu trước chẳng nhiễm biết, chẳng nghe nói thì làm gì có cái tướng cứng? Lại nữa, nếu đất luôn luôn thật là tướng cứng, thì không thể bỏ tướng cứng ấy. Nhưng như tô lạc, mật ong, nhựa cây khi nấu thì phải bỏ cái tướng cứng mà biến thành thể lỏng. Vàng, bạc, đồng, sắt hết thảy đều như thế. Còn nước đang ở thể lỏng, lạnh thì chuyển thành tướng cứng là băng. Như vậy, tất cả mọi thứ mọi loại đều có thể biến đổi tướng trạng”.

Ngài lại nói: “Nếu lửa thật có tánh nóng, thì sao có người vào lửa chẳng cháy. Trong thân cũng có lửa nóng, sao chẳng thiêu thân? Lửa ở trong mây mà nước không diệt được. Bởi thế, lửa không có tánh nóng nhất định. Vì thần thông lực, lửa không thể cháy thân. Vì nghiệp nhân duyên, ngũ tạng không nóng. Vì lực điện trong mây, nước không diệt được. Nếu tánh nóng và lửa khác nhau, thì lửa chắc chẳng nóng. Nếu tánh nóng và lửa là một, thì sao còn gọi là nóng? Tánh lửa như thế, các Đại khác cũng vậy”.

Như thế, tánh chung và tánh riêng đều Không, nên gọi là Tánh Không. Lấy theo Lý ấy mà suy ra tánh của Đất, Nước, Lửa thì cũng như theo dòng mà thấu được nguồn: tất cả đều Không.

Chỗ chỉ bày của Đức Thế Tôn là: Từ cái Tánh mà phát ra Tướng, gọi là theo Nghiệp mà phát hiện, ứng với cái lượng của Sở Tri. Còn chỗ luận của Ngài Long Thắng là: Từ nơi Tướng mà thấu cùng đến cái Tánh, đặc biệt hiển bày cái Sắc Tâm chẳng hai vậy.

Cái kính Dương Toại cũng gọi là Ngũ Phương Chư. Sách Luận Hành chép: “Tháng Năm, ngày Bính Ngọ, giờ Ngọ làm đá Ngũ Phương tròn như cái gương, ở giữa trũng. Soi vật thì ảnh ngược, hướng về mặt trời thì có lửa”.

Thế gian chỉ biết bùi nhùi, kính với mặt trời: ba cái nhân duyên hòa hợp lại thì lửa sanh. Chẳng biết rằng kính, bùi nhùi cùng với mặt trời đều ở xa nhau, chẳng phải Hòa hợp nên chẳng phải là Nhân Duyên. Nếu nói bỗng nhiên tự có ra, thì đáng lẽ chẳng cần kính hướng vào mặt trời, thế nên cũng chẳng phải Tự Nhiên. Nếu nói cả ba cái, mỗi cái đều có tánh lửa, thì lẽ ra bùi nhùi phải tự cháy, kính phải tự chảy và chỗ ánh sáng mặt trời đi đến, như rừng cây phải bị cháy thiêu! Cả ba cái đều không có tánh lửa, đủ biết là Hỏa Tánh vốn Không. Nhưng vì cái sức nghiệp của ba cái mà lửa tùy theo nghiệp hiện ra. Thế mới biết, lửa có khắp thế gianTánh Không, nào có nơi chốn. Nên cọ xát cây thì có lửa, đập đá là có lửa. Tất cả đều theo nghiệp mà phát hiện, chẳng riêng ở một cái kính Dương Toại, đều từ trong cái Tánh Thanh Tịnh phát khởi ra. Ngay Tánh tức là lửa, nào mượn Nhân Duyên? Ngay lửa là Tánh, sao nói là Tự Nhiên? Thế nên, Hỏa Đại vốn chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên. Tánh lửa ấy bèn chính là Thật Tướng vậy.

Tổ Tuyết Phong nhóm lửa xong, bèn chỉ ngay ngọn lửa mà khai thị cho đại chúng: “Ba đời Chư Phật đang ở trong ngọn lửa chuyển Đại Pháp Luân”.

Tổ Vân Môn nói rằng: “Ngọn lửa là ba đời Chư Phật thuyết pháp. Ba đời Chư Phật lập tức nghe”.

Tổ Huyền Sa nói: “Gần đây lệnh vua khá nghiêm ngặt!”

Tổ Tuyết Phong nói: “Là làm sao?”

Tổ Sa nói: “Chẳng để cho trà trộn cướp đồ ngoài chợ!”

Tổ Tuyết Phong bèn le lưỡi.

Ngày nọ, Tổ Tào Sơn vào tăng đường hơ lửa.

Có vị sư nói: “Hôm nay lạnh thật”.

Tổ Sơn nói : “Nên biết có cái chẳng lạnh!”

Vị sư hỏi : “Ai là kẻ chẳng lạnh?”

Tổ Sơn gắp lửa mà chỉ đó.

Nhà sư nói : “Chớ nói là không có người”.

Tổ Sơn ném bỏ lửa xuống.

Nhà sư nói : “Con ở trong chỗ ấy chẳng hiểu được”.

Tổ Sơn nói : “Mặt trời soi đầm lạnh, sáng ngời lại sáng ngời”.

Cổ nhân gặp cảnh thì phát minh Một đường hướng thượng. Đó là Tánh lửa Chân Không, Tánh Không thật lửa, nơi ấy là chỗ thấu thoát chân thật.

Kinh: “Anan, tánh Nước chẳng định : khi chảy, khi ngừng không có chừng. Như trong thành Thất La Phiệt, các ông Tiên Ca Tỳ La, Chước Ca La và các nhà đại huyễn thuật Bát Đầu Ma, Ha Tát Đa... muốn cầu tinh Thái Âm để hòa với các thuốc huyễn thuật, thì các ông ấy trong lúc mặt trăng tròn sáng, tay cầm hạt châu Phương Chư, hứng nước trong ánh mặt trăng. Vậy, nước ấy từ trong hạt châu mà ra hay ở trong hư không tự có hay từ mặt trăng đến?

“Anan, nếu từ mặt trăng đến, thì ở phương xa còn có thể làm hạt châu có ra nước, thì ánh sáng qua những rừng cây lẽ ra đều phải có chảy nước. Có chảy nước thì cần gì phải đợi hạt châu Phương Chư? Còn nếu không chảy nước thì biết là nước chẳng phải từ mặt trăng xuống. Nếu từ hạt châu mà ra, thì trong hạt châu thường phải chảy nước, sao lại phải đợi nửa đêm có mặt trăng sáng? Nếu do hư không mà sanh, thì hư không vô bờ bến, thì nước cũng không có giới hạn, vậy thì cõi người đến cõi trời đều phải chìm ngập, làm sao còn các loài? Ông hãy xét kỹ: mặt trăng từ trời chiếu xuống, hạt châu do tay cầm, còn cái mâm hứng nước thì do người xếp đặt, vậy nước kia từ phương nào mà chảy đến đây? Mặt trăng và hạt châu thì cách xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, chẳng lẽ nước kia không từ đâu mà tự có?

“Ông còn không biết rằng trong Như Lai Tạng, Tánh Thủy là Chân Không, Tánh Không là Chân Thủy, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà ứng vừa với chỗ hay biết.

“Một chốn cầm châu thì một chốn có nước chảy ra. Khắp pháp giới cầm hạt châu thì khắp pháp giới nước sanh ra. Nước có khắp thế gian mà nào có nơi chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là sự phân biệt, đo lường của thức tâm, chỉ là lời nói, danh tự toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng: Châu Phương Chư còn gọi là Âm Toại, hình giống con sò. Chà cho nóng, để dưới ánh trăng sẽ sinh ra nước. Phương là đá, Chư là ngọc. Luyện nấu đá mà thành, làm vào tháng Một (Mười Một), ngày Nhâm Tý, giờ Tý.

Nước sinh ra ở hạt Phương Chư vốn chẳng phải do Hòa Hợp, chẳng phải là Tự Nhiên thì cũng giống như kính Dương Toại. Nhưng chỗ nói “Nếu do hư không mà sanh, thì hư không vô biên, nước cũng không giới hạn... làm sao còn các loài?” Chẳng phải là mâu thuẫn với chỗ Tánh Không Chân Thủy sao? Bởi vì, lấy Tướng mà luận thì có hình, nên nước đầy hư không mà làm đắm chìm cả. Nhưng lấy Tánh mà luận thì vô hình, nên hư không vô tận thì nước hiện ra cũng vô tận. Câu “Tánh Thủy Chân Không” này là chỉ về tánh của tứ Đại thanh tịnh mà nói. Tánh vốn là Không, Không Không tương dung, Không Không bất nhị làm gì thấy có lấn đoạt lẫn nhau?

Đoạn sau, chỗ nghi của Ông Phú Lâu Na là ở nơi Tánh mà nghi có sự lấn đoạt, chứ chẳng phải nghi ở nơi Tướng. Tướng thì chẳng tương dung, Thế Tôn đã nói trước rồi còn nghi gì nữa!

Tổ Dược Sơn hỏi vị sư : “Từ đâu tới?”

Đáp : “Ở Hồ Nam lại”.

Tổ Sơn hỏi : “Nước hồ Động Đình đầy chưa?”

Đáp : “Dạ, chưa”.

Tổ Sơn nói : “Mưa đã lâu, sao chưa đầy?”

Vị sư không đáp được.

Tổ Đạo Ngô nói thay rằng : “Đầy rồi mà!”

Tổ Vân Nham nói : “Chỗ sâu xa!”

Tổ Động Sơn nói : “Trong kiếp nào mà từng có tăng, giảm?”

Tổ Vân Môn nói : “Chỉ ở trong ấy!”

Tổ Tuyết Phong nói : “Ngồi bên rá cơm mà đói chết vô số người. Ngồi bên biển nước, khát chết vô số người!”

Tổ Huyền Sa rằng : “Ngồi trong rá cơm, đói chết vô số người. Ngập đầu trong biển nước, khát chết vô số người!”

Tổ Vân Môn : “Suốt thân là cơm, suốt thân là nước”.

Tổ Thiên Đồng nêu ra: “Ta thì chẳng vậy, ngồi trong rá cơm, cái no làm chết vô số người. Ngập đầu trong biển nước, cái nê làm chết vô số người!”

Trước là cái họa vì chẳng nuốt vào. Sau là cái họa vì chẳng mửa ra. Chỉ như Ngài Vân Môn nói: Suốt thân là cơm, suốt thân là nước. Ở trong ấy thì không còn chỗ nuốt vào, mửa ra. Cổ nhân cử xướng cái tánh biển thật như sóng nước trùng trùng vô tận, đến Tổ Vân Môn : “Suốt thân là nước”, lời nói mới trọn thành. Cùng với “Tánh nước Chân Không, Tánh Không thật nước, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp pháp giới”, thật là khế hợp. Do đó mà biết rằng lấy Ý Thức mà đo lường Tánh Không, Tánh Thủy thì biết kêu gào mấy cho vừa.

Kinh: “Anan, tánh Gió không có tự thể, khi động khi tĩnh bất thường. Ông thường sửa áo, vào trong đại chúng, gấu áo Tăng Già Lê động đến người gần bên thì có chút gió phất qua mặt người kia. Gió đó là do gấu áo cà sa mà ra, từ hư khôngphát khởi hay do mặt người kia mà sanh?

“Anan, nếu gió ấy phát ra do gấu áo cà sa, thì ông đã mặc cả gió, cái áo phải bay tung rời khỏi thân ông. Nay ta thuyết pháp, rủ áo ở trong hội này, ông hãy xem cái áo của Ta, gió ở nơi đâu? Không lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió?

“Nếu gió đó do hư không sanh ra, thì khi áo ông không động sao gió chẳng bay phất. Tánh của hư không thì thường còn, gió phải thường sanh ra. Còn khi không có gió, hư không phải diệt mất! Gió diệt có thể thấy được, hư không diệt thì có nghĩa gì? Bởi vì có sanh diệt, thì đâu có gọi là hư không? Còn đã gọi là hư không, thì gió ở đâu mà ra được?

“Nếu gió ấy sanh ra do cái mặt người bị phất, thì đã do mặt người ấy sanh ra, lẽ ra phải phất vào ông, sao tự ông sửa áo mà lại phất ngược vào người kia?

“Ông hãy xét kỹ: sửa áo là do nơi ông, mặt thuộc về người kia, hư không lặng yên chẳng hề lay động, thì gió từ phương nào phát động đến đây? Tánh của gió và của hư không cách biệt, chẳng có hòa, chẳng có hợp, không lẽ gió kia không do đâu mà tự có?

“Ông thật không rõ rằng: Trong Như Lai Tạng, Tánh Gió là Chân Không, Tánh Không là Thật Gió, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo chúng sanh mà ứng vừa với chỗ hay biết.

“Anan, như một mình ông hơi động cái áo thì có chút gió bay ra. Khắp pháp giới đều phất, thì khắp các quốc độ đều có gió. Phong Đại có ở cùng khắp thế gian mà không có nơi chốn, chỉ theo Nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là những phân biệt, đo lường của thức tâm, chỉ có lời nói, danh tự toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng: “Ông tự sửa áo mà áo không bay mất. Cái mặt thuộc người kia mà gió chẳng phất ngược lại. Hư không lặng yên, chẳng theo gió mà có sanh có diệt”. Ba cái ấy chẳng can dự gì tánh lưu động của gió, thì cái gì mà cho là hòa hợp? Chẳng lẽ gió không đâu mà có ra, sao gọi là Tự Nhiên? Bởi vì Gió tức là Tánh, Tánh tức là Gió vậy. Chỉ theo nghiệp mà phát hiện ra, như áo động thì có gió sinh. Tánh cùng khắp pháp giới, thì gió cũng cùng khắp pháp giới, nên cùng gọi là Đại (lớn).

Nho gia nói Khôn là Đất, Khảm là Nước, Ly là Lửa. Tốn là Gió. Tất cả không ra ngoài Âm Dương. Âm Dương từ đâu sanh ra? Từ trong Động Tĩnh của Thái Cực sanh ra vậy. Mỗi vật đều đầy đủ một Thái Cực. Vạn vật đều suốt một thể Thái Cực. Chưa từng chẳng phải tức Lý là Sự, tức Sự là Lý. Nhưng mà ngộ Tâm là Thái Cực thì ít có thay! Đã ngộ Tâm là Thái Cực, dưới trời đâu có cái vật ở ngoài Tâm ư?

Tổ Ma Cốc đang quạt, có nhà sư hỏi: “Tánh của gió thường trụ, không nơi nào chẳng khắp, Hòa Thượng còn động quạt làm gì?”

Tổ Cốc nói: “Ông chỉ biết “Tánh gió thường trụ”, mà không biết chuyện không đâu chẳng khắp”.

Nhà sư nói: “Sao là không đâu chẳng khắp?”

Tổ Cốc lại phẩy quạt.

Nhà sư làm lễ.

Tổ Cốc nói: “Cái ông sư không có chỗ dùng, dẫu có ngàn ông thì có ích gì!”

Lại Tổ Nam Tuyền hỏi nhà sư: “Đêm qua gió mạnh, nhỉ?”

Nhà sư đáp: “Đêm qua gió mạnh”.

Tổ Tuyền nói: “Thổi gãy một cành tùng trước cửa!”

Sư nói: “Thổi gãy một cành tùng trước cửa”.

Tổ Nam Tuyền lại hỏi một nhà sư khác: “Đêm qua gió mạnh, nhỉ?”

Nhà sư nói : “Là ngọn gió nào?”

Tổ Tuyền nói : “Thổi gãy một cành tùng trước cửa!”

Nhà sư nói : “Là cây tùng nào?”

Tổ Tuyền nói : “Một được, một mất”.

Căn cứ vào chỗ đáp của hai vị tăng thì đều có hơi thở thiền tăng. Sao Ngài Nam Tuyền lại nói một được, một mất? Nếu định ngay ra được, mới cho là tự mình thấy Nam Tuyền.

Kinh: “Anan, hư không không có hình, nhân sắc mà hiển ra. Như trong thành Thất La Phiệt là chỗ xa sông, những người dòng Sát Lỵ, dòng Bà La Môn, dòng Tỳ Xá, dòng Thủ Đà hay dòng Phả La Đọa, dòng Chiên Đà La... Khi dựng nhà mới thì đào giếng để lấy nước. Đào lên một thước đất, thì trong đó có một thước hư không, như vậy cho đến đào lên được một trượng, thì trong đó lại được một trượng hư không. Hư không sâu hay cạn tùy theo đào lên nhiều hay ít. Hư không đó, do đất mà ra, nhân đào mà có hay không nhân gì mà tự sanh?

“Anan, hư không đó không do gì mà tự sanh, thì trước khi chưa đào đất, sao chỗ ấy lại không trống rỗng, mà chỉ thấy là đất, chẳng có gì thông suốt. Nếu nhân đất mà ra, thì khi đất được moi ra phải thấy có hư không vào. Nếu đất ra trước mà không thấy hư không vào, làm sao nói là hư không nhân đất mà ra? Còn nếu không ra, không vào thì hư không với đất vốn không khác nguyên nhân. Không khác tức là đồng, thì khi đất ra, hư không sao chẳng có ra? Nếu nhân đào mà ra, thì đào phải có ra hư không chớ chẳng phải ra đất. Nếu chẳng nhân đào mà có ra, khi tự đào thì ra đất, sao lại thấy hư không?

“Ông hãy xét xem, xét kỹ, xem kỹ: sự đào do từ tay người chuyển vận theo phương hướng, đất thì từ nơi mặt đất mà dời đi, như thế hư không nhân đâu mà có ra? Sự đào và hư không: một cái thật, một cái hư, không tác dụngvới nhau, chẳng phải hòa, chẳng phải hợp, chẳng lẽ hư không không do đâu mà tự có ra?

“Nếu hư không đó bản tánh tròn đầy toàn khắp, vốn chẳng hề lay động thì phải biết rằng hiện giờ ngay trước mặt đây: Hư Không và Địa, Thủy, Hỏa, Phong đều gọi là năm Đại, bản tánh vốn chân thật, viên dung, đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt.

“Anan, tâm ông mê muội, chẳng ngộ bốn Đại vốn là Như Lai Tạng. Phải nhìn ngay hư không là ra, là vào hay chẳng phải ra, vào. Ông hoàn toàn không biết trong Như Lai Tạng: Tánh Giác là Chân Không, Tánh KhôngChân Giác, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà ứng với lượng hay biết.

“Anan, như một cái giếng trống không thì hư không có trong một cái giếng, mười phương hư không thì cũng như vậy. Không Đại tròn đầy khắp mười phương, thật không nơi chốn, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho đó là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là những phân biệt, đo lường của tâm thức, chỉ có lời nói, danh từ toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng: Hư không chẳng có hình, sao có ra, vào? Chỉ bởi sắc hiện bày mà biết có hư không: có sắc thì chẳng phải là hư không, không có sắc tức là hư không. Sắc có đến, đi; hư không chẳng hề khởi, diệt. Khi tứ Đại diệt, hư không chẳng phải lúc ấy mới có. Bốn Đại có đến-đi, hư không vốn chẳng hề ra-vào. Tánh hư không tròn khắp cũng dễ hiểu, bốn Đại Chân Không cũng giống như vậy. Khi chưa tùy theo nghiệp thì thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, vốn chưa hề không có. Khi đã theo nghiệp phát hiện rồi, tùy cảm tùy ứng mà đầy khắp thế gian thì cũng không phải lúc ấy mới có. Tướng có sanh diệt, Tánh không sanh diệt. Có sanh diệt, thì chẳng có Toàn Khắp. Còn cái Toàn Khắp thì tự nó không có sanh diệt, gọi đó là Như Lai Tạng, không từ đâu đến, không đi về đâu, há lại có sanh tử ở trong ấy ư?

Nói về cái ngoan không [Cái Không phi lý luận của Tiểu Thừa và ngoại đạo]thì tuy không có ra vào, nhưng cũng là sanh diệt. Như sau này có nói “Hư Không sanh trong cái Đại Giác như một cái bọt sinh ra trong biển cả... Mười phương hư không cũng đều tiêu mất, chỉ duy cái Chân KhôngChân Giác vốn không sanh diệt”.

bốn Đại trước thì nói Chân Sắc, Chân Hỏa, Chân Thủy, Chân Phong đều dùng chữ Chân. Sau thì nói “Bốn Đại thanh tịnh” là đều nói trong Tánh. Không giữ lấy Tướng, bèn là “Tánh Chân Thật, viên dung đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt”. Thật rành rành tự tánh Chân Thật mà nói. Nếu các tướng hữu tình, làm sao mà viên dung vô ngại ? Nói là Dung, thì “tức Sắc tức Không, tức Không tức Sắc”, chẳng hề thấy có dấu vết của ngũ Đại, duy chỉ thuần nhất một cái Không. Nói là Viên, thì “Không chẳng ngại Sắc, Sắc chẳng ngại Không”, ngũ Đại đắp đổi lẫn nhau, hiển xuất vô cùng mà chẳng rời Nhất Chân vậy.

Trước thì lấy tứ Đại mà dung hội Chân Không. Đây thì lấy Chân Không tan về Chân Giác. Rõ ràng cái gọi là Chân Không tức là Chân Giác, cái ngoan không làm sao so sánh được.

Thiền sư Hoàng Long Tổ Tâm thượng đường rằng : “Tâm đồng Hư Không giới, bình đẳng với Tánh Không. Chứng đắc Tánh Không bèn không có pháp nào phải, trái. Cứ như thế mà ngơi nghỉ. Dừng chèo, thả neo về bến đậu thuyền. Cứ theo như môn đệ của lão tăng thì trời đất cách riêng không dính. Nói thử môn đệ của lão tăng có chỗ nào kỳ đặc :

“Vác ngang ngọn lược chẳng đoái người

Thẳng vào ngàn muôn đỉnh núi đi”.

Lại có Ông Hồ Đinh Giao tham lễ Tổ Bửu Thọ.

Tổ hỏi : “Chẳng phải là Hồ Đinh Giao [Đinh Giao có nghĩa là đóng đinh. ] ư?”

Ông Hồ trả lời : “Không dám”.

Tổ Tho nói : “Có đóng được hư không chăng?”

Ông Hồ nói : “Xin Hòa Thượng đả phá cho!”

Tổ Thọ bèn đánh.

Ông Hồ chẳng kham được ý chỉ ấy.

Tổ Thọ nói : “Về sau sẽ có ông thầy lắm lời vì ông mà chỉ cho chỗ này”.

Sau, Ông Hồ đến tham Ngài Triệu Châu.

Tổ hỏi : “Chẳng phải là Hồ Đinh Giao ư?”

Ông Hồ nói : “Không dám”.

Tổ Châu hỏi : “Có đóng được hư không chăng?”

Ông Hồ đáp : “Xin Hòa Thượng đả phá cho!”

Tổ Châu nói : “Hãy đóng vào một đường giáp nối ấy!”

Ông Hồ bèn kể chuyện bị gậy của Tổ Bửu Thọ.

Rồi hỏi : “Không rõ lỗi ở chỗ nào?”

Tổ Châu nói : “Chỉ một đường giáp nối ấy còn chẳng biết làm sao, lại còn bảo người đả phá hư không!”

Nhân đó, Tổ nói thay : “Hãy đóng vào một đường giáp nối ấy!”

Tổ Châu lại nói : “Ta nói như thế thì đối cùng với Ông Bửu Thọ kia thật là ngàn dặm muôn dặm”.

Ông Hồ bèn có chỗ thức tỉnh.

Hợp hai tắc mà xét, thì chứng đắc hư không cũng chẳng đúng, mà đả phá hư không cũng chẳng đúng. Vậy, thế nào mà thoát thân? Tham đi!

Kinh : “Anan, cái biết của Kiến Đại nhân Sắc Không mà có, ngoài ra là chẳng biết. Như hiện nay ông ở trong rừng Kỳ Đà, sớm mai thì sáng, chiều thì thấy tối. Đến lúc nửa đêm có trăng thì sáng, không trăng thì tối. Những tướng sáng, tối ấy do cái Thấy phân tích ra. Cái Thấy ấy với cái tướng sáng, tối và cả hư không là đồng một thể hay chẳng đồng một thể? Hay vừa đồng vừa chẳng đồng, vừa khác vừa chẳng khác?

“Anan, nếu cái Thấy đó cùng với sáng, tối và hư không vốn là một thể, thì sáng và tối tiêu diệt lẫn nhau. Khi tối thì không sáng, khi sáng thì không tối. Nếu cái Thấy cùng một thể với cái tối, thì khi sáng cái Thấy phải tiêu mất. Nếu cùng một thể với cái sáng, thì đến khi tối cái Thấy phải diệt. Làm sao còn thấy được sáng, thấy được tối. Còn như sáng và tối khác nhau, cái Thấy thì không sanh diệt, thì làm sao đồng một thể được?

“Nếu cái Thấy đó không đồng một thể với cái sáng và cái tối thì lìa ngoài cái sáng, cái tối và hư không ông hãy phân tích cái Thấy có hình tướng gì? Lìa ngoài cái sáng, tối và hư không, cái Thấy đó cũng đồng là lông rùa, sừng thỏ. Nếu cả ba cái sáng, tối và hư không hoàn toàn khác nhau, thì đo đâu mà lập thành cái Thấy?

“Sáng và tối trái ngược lẫn nhau làm sao đồng được! Lìa ngoài ba cái sáng, tối và hư không, cái Thấy vốn chẳng có gì, thì làm sao khác được? Cái phần của hư không hay cái phần của cái Thấy vốn không bờ mé, sao lại chẳng đồng! Thấy cái tối, thấy cái sáng, tánh không dời đổi làm sao lại chẳng khác!

“Ông hãy xét kỹ, suy xét tinh vi, xem cho kỹ, thấy cho cùng: Sáng do mặt trời, tối từ đêm đen, thông thuộc về hư không, bít thuộc về đại địa, thì cái Thấy như thế nhân đâu mà có? Cái Thấy thì có biết, hư không thì vô tri, không phải hòa không phải hợp, chẳng lẽ cái Thấy không do đâu mà có?

“Như sự Thấy, Nghe, Hay, Biết tánh nó đầy đủ toàn khắp, vốn chẳng động lay. Nên phải biết: Kiến Đại cùng với hư không vô biên, bất động cùng vốn bốn Đại Địa, Thủy, Hỏa, Phong có lay động đều gọi là sáu Đại, bản Tánh Chân Thật Viên Dung, đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt.

“Anan, tánh ông trôi chìm, không ngộ cái Thấy, Nghe, Hay, Biết của ông vốn là Như Lai Tạng. Ông hãy nhìn xem cái Thấy, Nghe, Hay, Biết này là sanh là diệt, là đồng là khác, là chẳng sanh diệt, là chẳng đồng, khác?

“Ông nào có biết, trong Như Lai Tạng cái Thấy là Tánh Minh Giác, Tánh Minh Giác hiển lộ ra thành cái Thấy, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà ứng với lượng hay biết.

“Như một cái Căn Thấy thấy khắp Pháp Giới, thì cái Biết Nghe, Biết Ngửi, Biết Nếm, Biết Cảm Xúc, Biết các pháp đều là cái Diệu Đức sáng rỡ toàn khắp pháp giới, tròn đầy cả mười phương hư không, nào có riêng nơi chốn. Chỉ tùy nghiệp hiện bày, thế gian lại không biết lầm cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều chỉ là sự phân biệt, đo lường của thức tâm : chỉ có danh tự, lời nói, toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng : Năm Đại Địa, Thủy, Hỏa, Phong và Không ở trước thì đủ cả sáu trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp, gọi là Tướng Phần. Nay là sáu căn Thấy, Nghe, Hay và Biết cũng đều do bốn Đại trong sạch hợp thành. Phàm nhânSắc Không trước mắt, đối cảnh tức biết, chưa nhập vào sự phân biệt của năm Thức trước, đó gọi là Kiến Phần. Do đó, lấy Kiến Đại mà gồm chung.

Như một cái Căn Thấy thấy khắp pháp giới, thì cái Biết Nghe, Biết Ngửi, Biết Nếm, Biết Xúc, Biết Pháp cũng toàn khắp pháp giới, Diệu Đức rỡ ràng vậy. Sao đều gọi là Diệu? Có Hình bèn là Thấy, có Tiếng là Nghe, chẳng gấp mà lẹ, chẳng đi mà đến, không do nghĩ toan, chẳng bởi xếp đặt nên gọi là Diệu.

Cái Kiến Đại này không có tự thể, chỉ nhân cảnh mà có. Cảnh trước mặt nếu không có, cái Thấy cũng chẳng sanh. Há có một thể hay nhiều thể để cùng cảnh mà lìa mà hợp, để có thể luận là đồng, là khác theo tứ cú ư? Sự lập luận của tứ cú [Có, Không, vừa Có vừa Không, không Có không Không] đều là hý luận vậy.

Thế nên, sáng, tối, thông, bít thay nhau ở trước mắt cũng như Địa, Thủy, Hỏa, Phong thay nhau giữa hư không. Cảnh có sanh diệt, cái Thấy không sanh diệt. Cảnh có động lay, cái Thấy không hề lay động. Nó toàn khắp pháp giới, cùng hư không chẳng hai. Nhưng cái Thấy thì có hay biết, ngoan không thì vô tri chẳng thể hòa hợp. Cái Giác tức là Không, gọi là Chân Không. Cái ngoan không thì sanh diệt, Chân Không nào có sanh diệt. Cái ngoan không sanh diệt ở trong Tánh Chân Giác cũng như bốn Đại sanh diệt trong hư không. Hư không cùng bốn Đại không thể lấy sự sanh diệt, đồng khác mà luận. Thế thì Kiến Đại đối với Sắc Không sao có thể lấy sự sanh diệt, đồng khác mà xem thấy được ư?

Phàm nói là sanh diệt, đồng khác đều là thuộc về Vọng Trần. Phàm nói chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải đồng, chẳng phải khác đều thuộc về Vọng Kế. Chỉ ở nơi Cảnh mà phân biện, chẳng ở nơi Tánh mà phân minh : đó là hý luận. Nếu ở nơi Tánh mà phân biện, thì cái Thấy này duyên với Tánh Cảnh, như mặt trăng thứ hai, không lìa mặt trăng thật.

Tánh phát ra mà thành cái Thấy, tức là cái Chân Giác phát ra mà làm cái Sáng. Giác là cái Thể hằng sáng của cái Thấy. Cái Sáng là Dụng của cái Thấy. Như đèn có ánh sáng: đèn là cái Thể của sự chiếu sáng, ánh sáng là cái Dụng của sự chiếu sáng. Tức Thấy là Giác, tức Giác là Không. Vốn không nhiễm ô, nên nói là Thanh Tịnh. Vốn không tạo tác, nên nói là Bổn Nhiên. Vốn không nơi chốn, nên nói là Toàn Khắp.

Theo Tam Thân mà luận, thì Thanh TịnhPháp Thân. Bổn Nhiên là Báo Thân, Toàn Khắp là Hóa Thân. Theo Ba Đức mà luận, Thanh Tịnh là Lý, Bổn Nhiên là Trí, Toàn Khắp là Hạnh. Hợp cả ba mà dung nhiếp thì đưa lên một tức cả ba, đưa lên ba tức là một. Khi chưa cảm ứng thì thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, cái Thấy này không thể nói được là không. Khi có cảm ứng, Diệu Đức sáng rỡ, toàn khắp pháp giới, cái Thấy này chẳng vướng nơi có. Sáu Căn thanh tịnh, tròn đầy mười phương hư không, nên thấy trăm cõi Phật, thấy ngàn cõi Phật, thấy toàn khắp pháp giới, mới là tròn vẹn cái lượng thanh tịnh. Còn chẳng như thế, cũng ứng với cái chỗ thấy tiết hạn hẹp, chỉ theo nghiệp có hiện ra mà thôi.

Sau có nói “Ông phát minh ra theo cái Không, thì có cái hư không hiện. Địa, Thủy, Hỏa, Phong mỗi mỗi đều phát minh ra, thì mỗi mỗi đều hiện. Các cái ấy là các thứ ứng ra theo Sở Tri Lượng vậy”. Bỏ Giác mà hợp với Trần, thì phát sanh trần lao. Ngược Trần hợp Giác, thì thấy rõ Chân Như. Thế cũng là sự theo nghiệp phát hiện vậy. Cái Tánh Giác Minh không có sự làm, không có sự tạo, không có người nhận lãnh, nghiệp thiện nghiệp ác cũng đều dứt bặt. Cái Ấy, đó là Như Lai Tạng.

Ông Quan Cung Phụng là Hạo Nguyệt hỏi Tổ Trường Sa Cấm rằng: “Con trùn đứt làm hai đoạn, hai đầu đều cử động, chưa rõ Phật Tánh ở đầu nào?”

Tổ Sa nói : “Động và Bất Động, đó là cảnh giới nào?”

Ông Nguyệt nói : “Lời nói không liên quan đến kinh điển, chẳng phải là chỗ đàm luận của người Trí. Như lời Hòa Thượng nói: Động cùng Bất Động, đó là cảnh giới nào? Từ kinh nào mà đem ra vậy?”

Tổ Sa nói: “Hẳn nhiên, nói mà không có kinh điển chẳng phải là chỗ đàm luận của người Trí. Ông không thấy kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng “Phải biết mười phương vô biên bất động hư không, cùng với bốn Đại Đất, Nước, Lửa, Gió động lay kia đều gọi là sáu Đại, Tánh vốn Chân Thật, Viên Dung đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt” đó sao?”

Bèn khai thị một bài kệ:

“Rất sâu xa, rất sâu xa

Pháp giới, thân này ấy tức Tâm

Mê ấy, mê tâm làm các sắc

Ngộ thì cảnh cảnh chính Chân Tâm

Thân, cảnh hai trần không thực tướng

Thấu rõ chỗ này gọi tri âm”.

Tổ Trường Sa khéo thuyết Lăng Nghiêm, đến chỗ nói là căn thân và thế giới hai trần không thực tướng thì trong không thấy có Căn Năng Kiến, ngoài không có Cảnh Sở Kiến. Năng, Sở đều Không, tìm cái Thấy rốt là không thể đắc, còn chỗ nào để nói sanh diệt, đồng dị ư?

Kinh : “Anan, tánh của Thức không có nguồn gốc, nhân nơi sáu thứ Căn và Trần mà hư vọng hiện ra. Nay ông hãy xem khắp Thánh chúng trong hội này, lấy con mắt lướt qua. Mắt ông trông khắp, chỉ như cái gương, không phân tích riêng biệt. Cái Thức của ông ở trong đó, lần lượt chỉ ra đây là Văn Thù, đây là Phú Lâu Na, đây là Mục Kiền Liên, đây là Tu Bồ Đề, đây là Xá Lợi Phất. Cái Thức Nhận Biết ấy sanh ra do cái thấy, sanh ra do các tướng, do nơi hư không hay không nhân cái gì, bỗng nhiên mà hiện?

“Anan, nếu cái Thức của ông sanh ra do cái Thấy, thì như không có các tướng sáng, tối và Sắc Không thì không có cái Thấy của ông. Cái Thấy còn không có, do đâu mà có ra cái Thức? Nếu cái Thức của ông sanh ra do các tướng, chứ không do cái Thấy, thì không thấy được cái sáng cũng chẳng thấy được cái tối. Sáng tối đã không thấy thì cũng không có Sắc Không. Các tướng kia còn không có thì cái Thức do đâu mà phát sanh? Nếu cái Thức ấy sanh do nơi hư không, không phải do tướng hay do cái Thấy, ngoài cái Thấy, thì không thể phân biệt, chẳng có thể tự biết được các tướng sáng, tối, sắc, không. Ngoài các tướng thì không còn các duyên, thì cái Thấy, Nghe, Hay, Biết do đâu mà thành lập. Cả hai thứ: cái Thấy và sắc trần đều chẳng phải, nếu là Không thì đồng với không có gì hết, còn nếu là Có thì cũng chẳng phải đồng với vật, dầu cho có phát ra cái Thức của ông, thì phân biệt cái gì?

“Nếu cái Thức không nhân gì mà bỗng nhiên phát ra, thì tại sao giữa trưa lại không riêng biết để có ra mặt trăng sáng?

“Ông hãy kỹ càng, suy xét chín chắn: cái Thấy gá vào mắt của ông, các tướng trả về cho trần cảnh, cái gì có thể hình trạng ra được thì mới thành Có, cái gì không hình tướng thì thành ra Không, còn cái Thức như thế do đâu mà ra? Cái Thức động, cái Thấy lặng yên, chẳng phải Hòa chẳng phải Hợp. Cho đến với các sự Nghe, Ngửi, Hay, Biết cũng đều như vậy. Không lẽ cái Thức không do đâu mà tự có ra?

“Nếu cái Thức đó vốn không do đâu, thì nên biết rằng: cái Thức Đại và cái Kiến Đại Thấy, Nghe, Hay, Biết tròn đầy, vắng lặng, bản tánh không do đâu mà có, cùng với hư không và Địa, Thủy, Hỏa, Phong đều gọi là bảy Đại, Tánh Chân Thật, Viên Dung đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt.

“Anan, tâm ông thô phù, không ngộ được cái Thức hay biết các điều thấy, nghe vốn là Như Lai Tạng. Ông hãy nhìn xem sáu cái Thức là do Đồng hay Khác, là Không hay Có, là không phải Đồng, Khác, hay không phải Không Có. Ông vốn không biết trong Như Lai Tạng, cái Thức là Tánh Giác Minh. Tánh Giác MinhChân Thức, là cái Biết nhiệm mầu vắng lặng toàn khắp pháp giới, ngậm chứa và nhả ra mười phương hư không, nào có nơi chốn. Chỉ tùy theo nghiệp mà hiện bày ra, thế gian không biết lầm cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên, đều là sự phân biệt, so lường của thức tâm: chỉ có lời nói, danh tự, toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng: Nói Đất, Nước, Lửa, Gió nương nơi hư không, là tánh năm Đại của thế giới, gọi là Tướng Phần. Nói Thấy, Nghe, Hay, Biết nương vào nơi Thức, là tánh năm Đại của Căn Thân, gọi là Kiến Phần. Kiến PhầnTướng Phần đều từ Thức Thứ Tám sanh khởi, cho nên Thức Thứ Tám vắng lặng như nhiên, thì gọi đó là Diệu Giác, là Như Lai Tạng.

Nay lấy năm Thức trước làm Kiến Đại, đó là chỗ gọi Tánh Cảnh thuộc Hiện Lượng. Lấy Thức Thứ Sáu làm Thức Đại, đó là chỗ gọi Phân Biệt Sự Thức, thuộc về Tỷ Lượng hay Phi Lượng. Hàng Nhị Thừa vì không biết có Thức Thứ Bảy và Thức Thứ Tám, lấy cái này cho là chủ nhân ông, cho là gây ra nghiệp lành nghiệp dữ và nghiệp vô lậu. Thế nên, năm Thức trước thì không có phân biệt, đến Thức Thứ Sáu mới có thể phân biệt. Vậy nên ở đoạn kinh này có nói “Cái Thức thì động, cái Thấy thì lặng yên”. Đó chỉ là cái Thức này, chẳng sanh do cái Thấy, chẳng sanh từ các tướng, chẳng sanh do nơi hư không, chẳng phải Nhân Duyên sanh, chẳng phải không nguyên nhân mà bỗng nhiên tự có, chẳng phải Tự Nhiên sanh! Cái Thức Thứ Sáu này đủ cả ba tánh thiện, ác và vô ký với cái Kiến Đại của sáu căn ở trước mỗi cái đều có chủng tửhiện hành, vốn chẳng phải Hòa, chẳng phải Hợp, cả ba cái ấy đồng là chẳng phải, rốt ráo là không chỗ nương. Thức này do từ đâu mà đến ư ? Nếu sanh từ nơi cái Thấy, sanh từ các Tướng, sanh nơi Hư Không thì đã có chỗ từ đó mà đến. Đã có chỗ từ đó mà đến, bèn có nơi chốn, thì chẳng toàn khắp. Chỉ là không từ đâu, không từ Không đến, không từ Có đến, tức là Tánh không có chỗ từ đâu : vốn không có bờ cõi, vốn tự tròn đầy, toàn khắp. Cho nên cái Phân Biệt Sự Thức này cùng với hai cái Kiến PhầnTướng Phần đều gọi là Thất Đại. Thức này rốt là vắng lặng, tức là hợp với Thức Thứ Tám, gọi là Như Lai Tạng.

Nếu Thức Thứ Sáu hợp với Trần, tức là Đồng, là Có. Lìa khỏi Trần, tức là Khác, là Không. Chẳng phải Hợp, chẳng phải Lìa, không còn mảy dấu vết có thể tìm được, mới được gọi là vắng lặng, như nhiên. Cái Thức vắng lặng như nhiên này sao lại gọi là Tánh của Thức, là Thức Chân Thật? Vì từ cái Minh mà biết, chẳng phải từ Tình khởi ra. Cái Thức này từ trong Chân Tánh, Chân Giác mà lưu xuất, Thức bèn là Tánh vậy, Thức bèn là Giác vậy. Đó gọi là chuyển Thức Thứ Tám thành Đại Viên Cảnh Trí.

Cái Minh Tri của Tánh Thức này là Chân Thức của Tánh Giác Minh. Như sau có nói Diệu Minh, Minh Diệu, cũng gọi là Diệu Giác vắng lặng như nhiên, toàn khắp pháp giới. Sáu Đại trước thì gọi là thanh tịnh bản nhiên, chỉ có Đại này gọi là Diệu Giác Trạm Nhiên, xét với Đẳng Giác, Diệu Giác có chỗ phân biệt vi tế. Sáu Đại trước thì nói “Tròn đầy khắp mười phương”, như là nghĩa Xứng Tánh. Còn Thức Đại này thì nói “Ngậm chứa và nhả ra mười phương hư không”, như là nghĩa Phát Khởi”. Thức Tánh không có nguồn mà hay làm nguồn cho muôn pháp. Phàm ở trước nói là Như Lai Tạng đều quy về đây vậy.

Ở Không Đại thì nói “Tâm ông hôn mê”, vì mê bốn ĐạiHư Không khác nhau, vốn không biết Tánh của Hư Không là Giác.

Kiến Đại thì nói “Tánh ông chìm đắm”, vì theo trần trôi chảy không quay trở lại, không biết Kiến Đại là Giác mà bất động.

Ở Thức Đại thì nói “Tâm ông thô phù”, tức là Thức tiềm tàng ở trong, phù là chỉ nhận phù căn, thô vì không đạt đến nguồn gốc của Thức.

Năm Ấm là thuộc về Mười Tám Giới, ở đây chỉ nói về Thức, vì trong Như Lai Tạng vốn chẳng sanh chẳng diệt, cùng hòa hợp với cái sanh diệt mà thành Thức A Lại Da. Nếu rốt ráo quay về cái Bất Sanh Bất Diệt, thì gọi là Thức Thứ Chín, tức Thức là Tánh vậy. Chẳng thể rốt ráo mà còn chút ít sanh diệt, thì tuy là lặng trong không sóng cũng chỉ là Thức mà chẳng phải Tánh. Người thấy Tánh thì chẳng mê nơi Thức, nên an trụ nhiệm mầu nơi cái Tâm Ngộ vậy.

Tổ Bửu Thọ thượng đường nói : “Tam giới Duy Tâm, vạn pháp Duy Thức. Ngoài hiên mây sanh, trước rèm mưa giọt, khe suối trong như lam, hoa đồng nở như gấm. Giờ đây mà chẳng xét căn nguyên. Trễ nải mai kia hỏi Di Lặc. Hiểu chăng? Đừng có đứng lâu cho mệt”.

Tổ Đơn Hà tụng rằng :

“Linh nhiên chẳng dính cổ hay kim

Tam giới đều trong một điểm Tâm

Ngoài hiên hoa đào, xuân bướm múa

Trước cửa dương liễu rực, oanh ca”.

Sách Duy Tâm Quyết nói rằng : Cây sườn núi trước sân mỗi mỗi đều trổi bày cái tướng nhiệm mầu của Vô Biên. Vượn hú, chim kêu đều cùng nhau phát lên tiếng vẹn tròn của Bất Nhị”.

Có ngộ được chỗ này mới tin được là khắp đại địa không có chỗ nào chẳng phải là thuốc, đâu chỉ ở trong Thất Đại mà thôi đâu? Chẳng được như thế, có nhập Lý, luận đàm sâu xa thì cũng đổi ra thành thuốc độc! Đâu phải chỉ có Nhân Duyên, Tự Nhiên mới là hý luận!

nhà sư hỏi Tổ Dược Sơn : “Chuyện mình chưa rõ, xin Hòa Thượng chỉ bày”.

Tổ Sơn nói : “Ta nay vì ông mà nói một câu thì cũng không khó. Chỉ như ông nay dưới lời nói mà thấy được thì còn có đôi chút rõ ràng. Còn nếu rơi vào suy lường, thì thành ra tội lỗi của ta. Chi bằng ai nấy ngậm miệng, khỏi làm lụy đến nhau”.

Thế, mới biết cái thức tâm đo lường mò mẫm thì với đạo ngày càng đi xa. Chỉ dùng lời nói thì chẳng phải là Thật Nghĩa.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32342)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11023)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30265)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11958)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12478)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34279)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52059)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10579)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10330)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10534)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12903)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16007)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21600)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12612)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16065)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13685)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16327)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11882)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11634)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16047)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12578)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11901)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15516)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11359)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13874)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11856)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12411)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14784)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11833)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14301)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20447)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13047)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14181)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20075)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13791)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31686)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11878)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant