Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Chỉ Tánh Diệu MinhNhư Lai Tạng, Rời Cả Hai Nghĩa “Phi” Và “Tức”

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10176)
06. Chỉ Tánh Diệu Minh Là Như Lai Tạng, Rời Cả Hai Nghĩa “Phi” Và “Tức”

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

Mục 8: Chỉ Rõ Căn Nguyên Hư Vọng Và Tánh Giác Toàn Vẹn


VI. CHỈ TÁNH DIỆU MINHNHƯ LAI TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA “PHI” VÀ “TỨC”

Kinh: “Phú Lâu Na, ông lấy cái Sắc, cái Không mà lấn cướp lẫn nhau ở nơi Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng theo ông làm Sắc làm Không, toàn khắp pháp giới. Vậy nên ở trong đó, Gió thì động, Hư Không thì yên lặng, mặt trời thì sáng, mây thì tối. Chúng sanh mê muội, trái với Giác, hợp với Trần, nên phát ra trần lao mà có các tướng thế gian.

“Ta thì lấy Tánh Diệu Minh, bất sanh bất diệt, hợp với Như Lai Tạng. Như Lai Tạng đó chính là Tánh Giác Diệu Minh, tròn vẹn chiếu soi pháp giới. Thế nên, ở trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đạo tràng bất động, cùng khắp mười phương thế giới. Thân trùm cả mười phương hư không vô tận, nơi đầu một mảy lông, hiện ra cõi Phật, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn. Diệt trần hợp Giác, nên Chân Như Diệu Giác Minh Tánh hiện bày.

Thông rằng: “Chưa ra khỏi luân hồibàn luận Viên Giác, thì Tánh Viên Giác cũng cùng trôi lăn. Nếu hết khỏi luân hồi thì làm gì có chuyện đó.” Tức ở đoạn này nói: “Lấy cái tướng của Sắc, của Không, mà lấn cướp lẫn nhau để luận Như Lai Tạng thì Tánh Như Lai Tạng cũng theo Sắc Không mà thành tam giới lưu chuyển; như vậy mà muốn khỏi thế gian nhọc mệt thì không thể có. Chúng sanh mê muội, không thấu suốt được rằng Sắùc Không cùng với ta vốn là một Thể. Vì hình tướng trói buộc nên đụng đâu cũng thành ra trở ngại, chính là vì trái với Tánh Giác, nên vốn là Minh mà chẳng được Diệu, bèn gọi đó là Mê. Trần tướng thuộc về sanh diệt, nguyên chẳng phải vốn có. Tánh Giác tuyệt không sanh diệt, chẳng nhờ ngoài đến. Chẳng phải vốn có, thì có thể diệt; chẳng ở ngoài đến, nên có thể hợp cùng. Đó là Chân Như Diệu Giác, tròn đủ chiếu soi pháp giới, một tức tất cả, tất cả tức một, ngang dọc tự do, sự sự vô ngại. Đây là diệu dụng không thể nghĩ bàn, chẳng phải do tu mà thành, nên tạm nói là hiện bày ra mà thôi vậy.

Luận An Tâm Pháp Môn của Sơ Tổ Đạt Ma nói: Khi mê thì người đuổi theo pháp, khi ngộ thì pháp đuổi theo người. Ngộ thì thức thu nhiếp sắc, mê thì sắc thu nhiếp thức. Hễ có tâm phân biệt so đo trong hiện lượng của Tự Tâm, bèn đều là mộng. Nếu thức tâm tịch diệt, không có một chỗ nào cho động niệm, đó gọi là Chánh Giác.

Ngài Thần Tú làm bài kệ:

“Thân là cây Bồ Đề

Tâm như đài gương sáng

Luôn luôn siêng chùi lau

Chớ để bám bụi trần”.

Chỉ một cái “Siêng chùi lau” đó, bèn là lấy Tâm Sanh Diệt mà hợp với Như Lai Tạng, nên mới ở ngoài cửa.

Bài kệ của Đức Lục Tổ là:

“Bồ Đề vốn không cây

Gương sáng chẳng phải đài

Xưa nay không một vật

Chỗ nào dính bụi đời?”.

Chỉ cái “Không một vật” này, bèn là lấy Chẳng Sanh Chẳng Diệt hợp cùng Như Lai Tạng, hợp nối địa vị Tổ vậy.

Tổ Triệu Châu thượng đường nói: “Như ngọc sáng trong tay, người Hồ đến thì người Hồ hiện, kẻ Hán đến thì kẻ Hán hiện. Lão tăng cầm một cọng cỏ dùng làm thân vàng trượng sáu [Thân Phật]. Lấy thân vàng trượng sáu dùng làm một cọng cỏ. Phật là phiền não, phiền não là Phật”.

nhà sư hỏi: “Phật là phiền não của nhà nào?”

Tổ đáp : “Là phiền não đối với tất cả mọi người.”

Hỏi : “Làm sao được khỏi?”

Tổ Triệu Châu nói: “Dùng cái khỏi để làm gì?”

Ở đây, Tổ Triệu Châu không dùng cái Diệt Trần, không dùng sự Hiệp Giác, lại hay ở trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đủ để cùng Lục Tổ nắm tay cùng đi!

Tổ Viên Chiếu thượng đường nói: “Nơi đầu một mảy lông, hiện quốc độ Phật, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn”.

Cầm đứng cây gậy lên mà nói: “Cái này đây là Trần, làm sao nói là cái đạo lý chuyển pháp luân? Hôm nay sơn tăng chẳng tiếc lông mày, mà nói rõ với các ông: Đưa lên thì nước biển nổi sóng, núi Tu Di chập chùng! Bỏ xuống thì bốn biển lặng trong, đất trời nghiêm tĩnh. Xin hỏi các ông: Đưa lên là phải? Bỏ xuống là phải? Nên đoạn hay chẳng đoạn, lưỡng trùng công án!”

Rồi gõ thiền sàng mà xuống tòa.

Lại nữa, Ni Sư Diệu Tổng thượng đường nói: “Tông thừa một phen xướng lên, thì Ba Tạng hết đường dẫn giải. Tổ lệnh thi hành ra, mười phương yên dứt. Hàng Nhị Thừa nghe đến hoảng hồn chạy mất, Thập Địa đến chỗ này vẫn còn như nghi. Nếu là bậc tuấn kiệt, thì chưa nói đã rõ. Giả sửthủ đoạn dời sao, đổi Bắc Đẩu, bày bố trương cờ gióùng trống thì cũng bỏ công, nào có thật nghĩa! Một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng truyền, người học nhọc công, như vượn bắt bóng! Linh Sơn phó chúc, rủ lòng thuận với thời cơ mà diễn nói ba Thừa, mỗi tùy theo căn khí. Bắt đầu ở vườn Lộc Uyển, chuyển pháp luân Tứ Đế, độ trăm ngàn vạn chúng.

“Ngày nay, sơn tăng cùng với địa phương nơi này, cũng Phật cũng Tổ, sông núi, đất đai, cỏ cây rừng bụi, bốn chúng ngay đây, mỗi mỗi đều chuyển đại pháp luân, ánh sáng giao nhau thành lưới báu. Nếu mỗi một cọng cỏ, mỗi một cội cây không chuyển đại pháp luân thì chẳng gọi được là chuyển pháp luân lớn. Bởi thế mà nói nơi đầu một mảy lông hiện ra cõi nước Chư Phật, ngồi nơi một vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn. Ở trong thời gian không gian ấy mà làm ra vô lượng vô biên Phật sự rộng lớn, khắp cùng pháp giới, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ. Chẳng động bước mà dạo chơi lầu các Di Lặc. Chẳng xoay lại cái Nghe mà nhập vào cửa mở khắp của Quan Âm. Tình với vô tình, Tánh Tướng bình đẳng, chẳng phải là Thần thông diệu dụng, cũng chẳng phải Pháp vốn như thế”.

Ở chỗ này mà tự do rành rẻ thì ơn vua, ơn Phật tức thời trả hết! Hãy nói như thế nào là một câu trả ơn?

Trời cao muôn trượng ở,

Biển rộng trăm sông về.

Các vị tôn túc khế hợp sâu xa với cảnh giới Diệu Minh, cực lực tuyên dương, lời lời đều có đạo vị.

Kinh: “Nhưng Như Lai Tạng Bản Diệu Viên Tâm không phải là Tâm, không phải là Địa, Thủy, Phong, Hỏa; không phải là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý; không phải Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; không phải Nhãn Thức Giới cho đến không phải là Ý Thức Giới; không phải là Minh hay Vô Minh, không phải hết Minh hay hết Vô Minh, như vậy cho đến không phải là Lão, không phải Tử, không phải hết Lão, Tử; không phải là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không phải Trí, không phải Đắc; không phải là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ; không phải là Ba La Mật Đa, như vậy cho đến cũng không phải là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, không phải Đại Niết Bàn, không phải Thường, không phải Lạc, không phải Ngã, không phải Tịnh; tất cả đều chẳng phải, chẳng phải là pháp thế gian hay xuất thế gian.

“Tức Như Lai Tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, tức là Tâm, tức là Không, tức là Địa, Thủy, Phong, Hỏa tức là Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý; tức là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; tùức là Nhãn Thức Giới cho đến tức là Ý Thức Giới; tức là Minh, tức là Vô Minh, tức là Minh và Vô Minh tận, như thế cho đến tức là Lão, tức là Tử, tức Lão Tử tận; tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; tức là Trí, tức là Đắc; tức là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ, tức là Ba La Mật Đa. Như thế cho đến tức là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri; tức là Đại Niết Bàn, tức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, tất cả đều tức là, tức là pháp thế gianxuất thế gian vậy.

“Tức cái Như Lai Tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, lìa Tức là, lìa Chẳng phải, cũng Tức là cũng Chẳng phải. Làm sao chúng sanh trong ba cõi và các hàng Thanh Văn, Duyên Giác xuất thế gian, lấy cái tâm có chỗ biết mà đo lường Bồ Đề Vô Thượng của Như Lai, hay dùng ngôn ngữ thế gian mà vào Tri Kiến Phật.

Thông rằng: Đoạn kinh này chỉ có Ngài Trường Thủy là xếp lại có thứ tự.

Nói rằng: Bản Diệu Viên Tâm không phải là Tâm, không phải là Không, hết thảy đó, là tóm về Chẳng phải Tướng để hiển bày Chân Đế.

Nói rằng: Nguyên Minh Diệu Tâm tức là Tâm, tức là Không, hết thảy đó, là tóm về Tức là Tướng để hiển rõ Tục Đế.

Nói rằng: Diệu Minh Tâm Nguyên lìa Tức Là, lìa Chẳng Phải cũng Tức Là cũng Chẳng Phải, là tóm về phủ che và soi chiếu để hiển bày Trung Đạo. Phủ che cả chân lẫn tục, nên nói lìa Tức là, lìa Chẳng phải. Chiếu soi cả chân và tục, nên nói cũng Tức là cũng Chẳng phải.

Ba Đếmột Thể, nên đều nói tức là Như Lai Tạng.

Ban đầu, lấy cái chẳng phải để dẹp tướng, kế đó lấy chỗ Tức là để dẹp cái Chẳng phải, cuối cùng nói rằng còn mang vác danh từ, lời nói thì chưa cùng tột ý chỉ của Nhất Chân. Lìa Tức là lìa Chẳng phải, không cả Chẳng phải và Không chẳng phải, ngôn ngữ hết đường, tâm hành tuyệt dấu, mới hiển lộ Nhất Chân pháp giới Như Lai Tạng Tâm. Cho nên, trong kinh Duy Ma Cật, ba mươi mốt vị Bồ Tát thuyết pháp môn Bất Nhị đều dùng lời nói để dẹp hình tướng, còn Ngài Văn Thù lấy lời nói để dẹp lời nói. Đức Duy Ma Cật lấy không lời nói mà dẹp lời nói, mới là rốt ráo.

Tất cả pháp thế gian không ra ngoài năm Ấm, bảy Đại, Căn, Trần, Xứù, Giới. Pháp xuất thế gian không ra ngoài Thanh Văn, Duyên Giác nhị thừa. Chỉ có Bồ Tát với Phật, ở nơi thế mà xuất thế, chẳng có chuyên về xuất thế vậy. Tâm thuộïc về Thức, nên thu nhiếp năm Ấm, Nhãn Thức Giới v.v... thì thu nhiếp mười hai Xứ. Đó là sáu cõi phàm phu vậy. Hàng Duyên Giác quán mười hai nhân duyên, có tướng sanh khởi, có tướng tu trừ, đó là cảnh giới Duyên Giác. Biết cái Khổ, đoạn cái Tập, chứng Diệt, tu Đạo, là cảnh giới Thanh Văn. Có Trí, có Đắc, cho đến sáu Ba La Mật, là cảnh giới của Bồ Tát. Ba hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri và bốn Đức Niết Bàn, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đều là Phật Giới. Thế gianxuất thế gian không ngoài những cảnh giới trên. Nếu nơi mỗi Giới mà chấp trước vào cái Tức là thì chẳng có tròn vẹn, nên phải ở nơi Chẳng phải mà thấy tròn vẹn. Một khi chấp trước lấy cái Chẳng phải, thì chẳng diệu, nên phải ở nơi Tức là để thấy cái Diệu. Diệu mà Minh, Minh mà Diệu, chẳng phải Tức, chẳng phải Phi, cũng là Tức, cũng là Phi, Năng Sở đều lìa, không còn chút bóng dáng vang vọng nào khá được, đó là Bồ Đề Vô thượng chân thật vậy.

Ngài Mã Minh nói: “Cái Chân-Thật-Không ấy là từ xưa đến nay không tương ưng với tất cả nhiễm pháp, lìa tất cả pháp và tướng sai biệt, không có một chút tâm phân biệt hư vọng vậy. Nên biết Chân Như chẳng phải là có tướng, chẳng phải là không có tướng, chẳng phải là Hữu-Vô-Tướng, chẳng không phải Hữu-Vô-Tướng, chẳng phải tướng khác, chẳng tướng Một hay Khác, chẳng phải không tướng Một, Khác. Nói tóm lại, vì hết thảy chúng sanhphân biệt hư vọng, nên không thể tiếp xúc được Chân Như. Thế nên, chúng sanh ba cõi thì thấy cái Giả của Chân Như; Thanh Văn, Duyên Giác thì thấy cái Không của Chân Như, nên đối với Trung Đạo Đế của Bồ Tát còn không thể đo lường nổi, huống là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Chỉ có Phật cùng với Phật mới có thể thấu suốt rốt ráo. Ngay hàng Đăng Địa Bồ Tát, còn có chỗ chẳng thấy, thì há ngôn ngữ thế gian mà có thể suy đoán tăm hơi ư? Vô Thượng Bồ Đề không thể lấy tâm trí mà biết, không thể lấy lời lẽ nói năng mà nhập, càng thâm nhập thì càng thấy chỗ nhiệm mầu của nó vậy”.

nhà sư hỏi Tổ Mã Tổ [Đạo Nhất thiền sư, xứ Giang Tây, đời Đường. Là người kế pháp của Tổ Nam Nhạc Nhượng. Ngài họ Mã thị, đời ấy gọi là Mã Tổ. Trong niên hiệu Ngươn Hòa được phong tặng là Đại Tịch.] : “Hòa Thượng vì sao nói “Tức Tâm tức Phật”?”

Đáp : “Để dỗ trẻ con nín khóc”.

Hỏi : “Nín rồi thì như thế nào?”

Đáp : “Chẳng phải Tâm, chẳng Phật”.

Hỏi : “Người ngoài hai loại ấy đến chỉ dạy làm sao?”

Đáp : “Vì y mà nói chẳng phải vật”.

Hỏi : “Bỗng gặp người trong ấy đến thì như thế nào?”

Đáp : “Liền dạy y thể hội đạo lớn”.

Ngài Mã Tổ đã ở trong Niết Bàn Diệu Tâm nên xuất lời, hà hơi đều hợp với Tâm đó.

Lại nữa, Đức Mã Tổ nghe Ngài Đại Mai trụ sơn, mới bảo nhà sư đến hỏi: “Hòa Thượng ra mắt Mã đại sư, được cái gì mà trụ núi này?”

Ngài Đại Mai nói: “Đại sư nói với tôi “Tức Tâm, tức Phật”. Tôi bèn ở trong ấy mà trụ”.

Nhà sư nói: “Gần đây, Phật Pháp của đại sư lại khác”.

Ngài Mai nói: “Ra sao?”

Đáp : “Đại sư lại nói “Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật””.

Ngài Đại Mai nói: “Cái ông già ấy làm mê loạn người chưa có ngày thôi! Mặc kệ ông ta chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật. Tôi vẫn tức Tâm, tức Phật!”

Nhà sư ấy về thưa lại với Đức Mã Tổ, Ngài nói : “Trái mơ (Đại Mai) chín rồi vậy”.

Thiền sư Đông Tự Hội thường sợ đệ tử lấy câu “Tức Tâm, tức Phật” mà đàm luận, ghi nhớ, đọc tụng không ngừng. Ngài bảo : “Phật trụ chỗ nào mà nói tức Tâm? Tâm như ông thầy vẽ, sao nói tức Phật?” Bèn khai thị cho chúng rằng : “Tâm chẳng phải Phật, Trí chẳng phải Đạo. Gươm mất đã xa rồi, mới khắc dấu vào ghe!”

Tổ Nam Tuyền có lần nói: “Giang Tây Mã Tổ dạy tức Tâm tức Phật, Vương Lão sư (là Nam Tuyền) chẳng nói thế! Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải Vật, nói như thế thì có lỗi gì chăng?”

Ngài Triệu Châu lễ bái rồi bỏ đi ra.

Khi ấy có nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu : “Thượng Tọa lễ bái rồi bỏ đi ra, là ý gì thế?”

Ngài nói : “Ông hãy trở lại hỏi lấy Hòa Thượng”.

Nhà sư bèn hỏi Tổ Nam Tuyền : “Vừa rồi ý của Triệu Thượng Tọa là thế nào?”

Tổ Truyền nói : “Ông ấy lãnh hội được ý chỉ Lão tăng”.

Ở nơi chỗ dụng xứ của các vị lão túc mà chẳng có nghi, mới có thể nhập Phật Tri Kiến.

Kinh: “Ví như đàn cầm, sắt, không hầu, tỳ bà tuy là có diệu âm, mà không có ngón tay diệu thì rốt cuộc chẳng phát ra được. Ông và chúng sanh cũng như thế đó. Cái Chân Tâm hằng giác quý báu, mỗi mỗi đều tròn đủ. Như ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát ra ánh sáng. Còn các ông vừa tạm khởi tâm, thì trần lao đã nổi dậy. Do chẳng siêng năng cầu đạo Vô Thượng Giác, ưa nhớ Tiểu Thừa được chút ít đã cho là đủ”.

Thông rằng: Diệu Minh, Minh Diệu chính là Diệu Âm này, với cái diệu của ngón tay đều chẳng phải là chỗ nghĩ bàn có thể đến được. Tức là như ta ấn ngón tay, tiếng nhiệm mầu theo đó phát ra, như Hải Ấn phát sáng, sắc sắc tròn đầy, có gì tạo tác đâu?

Kinh Đại Tập nói: “Toàn thể sắc tượng của cõi Diêm Phù Đề đều là ấn văn của đại hải, nên gọi là Hải Ấn”.

Các ông thì vừa mới móng tâm, cũng như đàn với tay chẳng có rập nhau, đã chẳng nghe được nhiệm mầu, mà trần lao nổi lên loạn xạ. Chỉ vì dùng cái tâm sanh diệt tương ưng với Như Lai Tạng, không tùy thuận Định Huệ chiếu soi, mà tùy với vô minh phiền não, nên có trần lao. Trần lao che khuất thì tuy có Chân Tâm Bảo Giác, mỗi mỗi tròn đầy, cũng không thể phát ra được.

Thiền sư Đông Minh Thiên, một hôm đang đọc kinh Lăng Nghiêm, có vị đạo giả tên Trung hỏi: “Như Ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát quang”, ý Phật như thế nào?”

Ngài nói : “Cái lão Thích Ca, đáng cho hai mươi gậy!”

Hỏi : “Vì sao như thế?”

Đáp : “Dùng ấn ngón tay làm gì?”

Hỏi : “ “Ông vừa móng tâm, trần lao đã nổi”, lại là sao?”

Đáp : “Đó cũng là Hải Ấn phát quang!”

Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay! Phải thấy được như thế mới gọi là chuyển Lăng Nghiêm.

Thiền sư Tiến Phúc Ngộ Bổn thượng đường nói: “Vua Càn Thát Bà vừa tấu nhạc, thì núi sông, đất đai đều nhảy múa. Có đâu như lão què Vân Môn, thoát đạo Hai Mươi Lăm tháng Chạp! Bác Sơn này ngày nay, có Điều thì chụp Điều, không có Điều thì chụp lấy Lệ, chỉ cần ứng với thời tiết”.

Bỗng cầm lên cây gậy, gác ngang đầu gối, làm thế gãy đàn, rồi nói: “Có nghe thưởng thức tiếng đàn chăng?”

Chặp lâu nói rằng: “Dầu cho làm tiếng phụng hoàng kêu. Rốt cuộc có ai hay Chỉ Pháp [Pháp của ngón tay]!”. Đánh vào bàn một cái, rồi xuống tòa.

Than ôi, Chỉ Pháp há thật chẳng truyền sao? Siêng năng cầu đạo Vô Thượng Giác, tự mình hiện được đó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11962)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11347)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12066)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17984)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9949)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12351)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15342)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12097)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10616)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12556)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13173)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12687)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16579)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19667)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12670)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10903)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11952)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11844)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14517)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12895)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12176)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10311)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11482)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14272)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant