Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mục 3: Chỉ Dạy Tên Kinh

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10777)
Mục 3: Chỉ Dạy Tên Kinh

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG

Mục 3: Chỉ Dạy Tên Kinh

Kinh: Bấy giờ Ngài Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phậtbạch Phật rằng: “Phải gọi tên kinh này là gì? Tôi cùng chúng sanh phụng trì như thế nào?”

Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: “Kinh này tên là Đại Phật Đảnh Tất Đát Đa Bát Đát Ra, Vô Thượng Bảo Ấn, Thập Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn”.

Thông rằng: Từ chỗ ban đầu phân biệt chọn lựa hẳn Chân, Vọng, tuyên bày Tánh Chân Thắng Nghĩa trong Thắng Nghĩa, là Kiến Đạo Phần. Từ chỗ muốn do cửa mà vào nhà rực rỡ của Thiên Vương, lựa chọn hai mươi lăm Viên Thông, cho đến phụng trì thần chú Phật ĐảnhTu Đạo Phần. Lại từ chỗ phàm phu rốt đến Đại Niết Bàn, chỉ rõ con đường chân chánh tu hành vô thượngChứng Quả Phần. Ý chỉ lớn lao của bộ kinh đủ rồi vậy. Nên Ngài Văn Thù nhân đấy mà thưa hỏi.

Đã hỏi tên kinh tức là phải phụng trì mà thành phần Lưu Thông, cớ sao có những điều chưa phát huy ra hết mà lại hỏi tên kinh? Bởi vì, năm mươi lăm vị của con đường Bồ Đề Chân Chánh đó thật là nhân chánh, quả chánh. Chỉ là chẳng rõ Chân Tâm, tu tập lầm loạn nên mới có luân chuyển các nẻo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Tu La, người, Trời vậy. Hai mươi lăm Viên Thông đều trong Tam Ma Địa, vốn không có chuyện Ma. Chỉ bởi chẳng biết Chân Tâm, tu tập lầm loạn nên mới có năm mươi thứ Ấm Ma, đều là chỗ nói “Nếu quán khác đi, gọi là Tà Quán”. Đoạn sau sẽ kê rõ số mục.

Kinh này, tuy nhân Ngài Anan thưa hỏi, mà lấy Thần Chú Phật Đảnh nêu bày Pháp Môn Vô Thượng. Bởi thế, Đại Bạch Tán Cái [Cây Dù Trắng Trùm Khắp] này, thể nó bao trùm hết thảy, siêu tình, lìa kiến, tức là Như Lai Tạng Tâm Ấn vậy. Soi chiếu cùng tột biển vô biên cõi Phật, sạch trong tuyệt không mảy bụi, tức là con mắt pháp Kim Cương vậy. Ấn nói là Vô Thượng, vì chẳng phải là Tối Thượng Thừa thì không thể Ấn được. Nhãn nói là thanh tịnh vì nếu còn một mảy bụi thì chẳng soi trùm được. Ấn, gọi là Bảo vì vốn thường trụ chẳng hoại. Nhãn, gọi là Biển, ắt bao trùm vô tận. Thần Chú bất khả tư nghì này tức là cái Tánh bất khả tư nghì vậy. Tánh cùng Chú bình đẳng, bất khả tư nghì, há có hai được ư!

Tổ Phong Huyệt ở Trình Châu Nha thượng đường, nói: “Tâm Ấn Tổ Sư giống như then chốt của con trâu sắt. Đi thì ấn đứng, đứng thì ấn phá. Chỉ như chẳng đi, chẳng đứng thì ấn là phải hay không ấn là phải?”

Khi ấy có Trưởng Lão Lư Ba bước ra, nói: “Tôi có then chốt của con trâu sắt, xin thầy đừng ráp thêm ấn vào!”

Tổ Huyệt nói:

“Quen câu kình nghê đầm lặng rộng

“Lại than ếch nhái bì bõm bãi cát bùn”.

Ông Lư Ba đang lưỡng lự suy nghĩ thì Tổ Huyệt quát: “Trưởng Lão, sao chẳng nói đi?”

Lư Ba định nói, Tổ Huyệt đánh một cây phất tử: “Lại nhớ được thoại đầu ư, thử nói xem!”

Lư Ba định mở miệng, Tổ Huyệt lại đánh một phất tử.

Ông Mục Chủ nói: “Phật Pháp cùng Vương Pháp là một thứ”.

Tổ Huyệt nói: “Thấy cái gì nào?”

Ông Mục Chủ nói: “Cần đoạn chẳng đoạn, lại chiêu thêm loạn!”

Tổ Huyệt bèn xuống tòa.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Then chốt trâu sắt, ấn trụ ấn phá

Suốt khỏi đỉnh Tỳ Lô mà đi

Lại đến ngồi đầu lưỡi hóa Phật

Phong Huyệt thử xem, Lư Ba rớt té

Đầu gậy hét rồi: Điện quang, lửa đá

Rờ rỡ rõ ràng, ngọc trên mâm

Nháy mắt, nhăn mày: lại than lỗi”.

Lại Ngài Mân Súy sai sứ giả đưa Ông Châu Ký đến Tổ Bửu Phước.

Tổ Phước thượng đường, nói: “Đi thì ấn trụ, trụ thì ấn phá”.

Nhà sư nói: “Chẳng đi chẳng trụ, dùng ấn làm gì?”

Tổ Phước bèn đánh.

Nhà sư nói: “Như thế thì ở trong hang quỉ núi đều nhân vì ngày hôm nay vậy”.

Tổ im lặng.

Hợp hai tắc trên mà xem thì Vô Thượng Bảo Ấn, Lửa đá, Điện quang tức là lầm lỗi vậy. Há có thể suy nghĩ tính toán ư? Cho nên chẳng phải là Hải Nhãn Thanh Tịnh thì không đủ để thấy!

Kinh: “Cũng gọi tên là Cứu Hộ Thân Nhân, độ thoát Anan cùng Tánh Tỳ Kheo Ni trong hội này, đắc Bồ Đề Tâm, nhập Biến Tri Hải”.

Thông rằng: Phật Đảnh Thần Chú thật không thể nghĩ bàn, khiến cho Tánh Tỳ Kheo Ni lòng dâm liền khô cạn, cứu hộ Ngài Anan khỏi bị phá giới, cũng đã là lạ lùng. Như Tánh Tỳ Kheo Ni mới đầu đắc quả A Na Hàm, rồi chứng đạo A La Hán, bèn ngộ tánh dâm vốn không, đã được ra khỏi ràng buộc, thể nhập Chánh Biến Tri. Bồ Đề Tâm thuộc về Chánh Tri, vì rõ chuyện bổn phận vậy. Ở trong ấy chọn rõ chân vọng, gạn lọc để tu sửa điều trị, thì hết thảy nhân quả chẳng còn nghi hoặc, là thuộc về Biến Tri [Biết Khắp]. Ông Anan đã được Pháp Thân, đắc Bồ Đề Tâm, nay trong tất cả điên đảo, lầm loạn tu tập, đều không gì chẳng thông suốt; đó là thể nhập Biển Khắp Biết vậy. Thế đó, rõ được Một thì vạn sự xong. Chỉ ở nơi Chân Tâm không hoa mắt thì biến thái của thế gian, chỗ nào mà chẳng suốt thông, vì tất cả do Tâm tạo vậy.

Thiền sư Nham Đầu Khoát trải qua mùa Hạ ở nhà Ông Cam Chí.

Một hôm, đang cầm cây kim thì Ông Chí ở ruộng về cầm cái mai đứng sát trước Ngài. Tổ Khoát cầm kim làm thế đâm móc.

Ông Chí vội vàng vào nhà, mặc áo muốn ra lạy tạ ơn.

Bà vợ hỏi: “Có chuyện gì thế?”

Ông Chí nói: “Chẳng được nói!”

Bà vợ nói: “Cần biết chỗ biết của ông”.

Ông Chí kể lại chuyện lúc nãy.

Bà la lên: “Chuyện ách yếu này ba mươi năm sau, phải biết một phen uống nước là một phen mắc nghẹn!”

Cô con gái nghe cha nói ra, bèn nói: “Mới biết tánh mạng người ta khắp đại địa đều bị một đầu mũi kim của Thượng Tọa xuyên suốt!”

Lạ thay, lạ thay! Nào ngờ trên mũi kim may của Tổ Nham Đầu có đủ Đại Phật Đảnh Tát Đát Đa Bát Đát Ra Thần Chú, khiến cho cả nhà Ông Cam Chí trong khoảng sát na nhất thời đắc Bồ Đề Tâm, vào Biến Tri Hải vậy.

Kinh: “Cũng tên là Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa.

Thông rằng: Chú ngữ không thể giải thích, đó là mật ngữ của Như Lai. Một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng truyền, cũng là bí mật của Như Lai vậy. Đã bảo là bí mật há có chỗ để Tu, có chỗ để Chứng ư? Phàm có Tu, có Chứng đều thuộc về Bất Liễu [Chẳng rõ ràng, chẳng rốt ráo]. Độc chỉ không Tu, không Chứng mới là Tu Chứng Liễu Nghĩa vậy. Đã không thể lấy Tu Chứng mà được, ắt phải là mật ngộ, một niệm huân tu thiện nghiệp vô lậu, chẳng lấy cái Trí mà biết, chẳng lấy cái Thức mà hay. Phàm có tri thức tức là hữu lậu, chẳng được là mật. Lấy cái mật này làm nhân, như trì chú... ấy gọi là Bất Tư Nghì Huân Tu vậy. Cái Bất Tư Nghì này làm Nhân, ắt chứng Quả Bất Tư Nghì. Như Lai, đó là chẳng thể nghĩ bàn. Đã chứng Như Lai, thì chỗ nào chẳng tỏ suốt ư?

Tổ Triệu Châu, nhân có vị ni hỏi: “Như sao là mật mật ý?”

Tổ Châu lấy tay phất.

Vị ni nói : “Hòa Thượng còn có Cái Ấy, nhé!”

Tổ Châu nói : “Ấy, chính ngươi lại có Cái Ấy, đó!”

Ngài Từ Thọ Thâm tụng rằng:

“Mật mật, thâm thâm, ý tột cùng

Bao người lầm lạc giữa hư không

Sư cô nếu hiểu lay tay đó

Chắc nát tâm can cũng đoạn trường!”.

Hòa Thượng Đức Sơn Viên Minh dạy chúng rằng: “Cho đến hết rồi, dầu có được miệng của ba đời Chư Phật treo trên vách thì vẫn còn có một người ha hả cười lớn. Nếu rõ người này, việc tham học xong ngay!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Ôm nắm chỗ quan yếu

Gió mài, mây quét, nước lặng, trời thu

Chớ cho vảy gấm không mùi vị

Liềm trăng câu hết cả sông Thương”.

Ngài Đầu Tử nêu ra rằng: “Tuy là như vậy, nhưng Đức Sơn quả giống như “Cất hết trăng trời Sở. Vẫn còn sao đất Hán””.

Tụng rằng:

“Đôi mày vào tối nẻo gập gềnh

Trời lặn nương lều tạm sống yên

Cũng tợ nửa đêm người gỗ ngủ

Khỏi học Thuấn nhường chịu ở rừng

Phải hay hoa rụng can gì mộc (cây)

Không cẳng vừa đi sớm gặp đường

Sáng qua gió nổi Trường An đạo

Nguyên đó Côn Lôn tiến quốc đồ”.

Các công án như thế cũng không thể đo lường được. Nếu rõ mật ngữ này thì việc tham học bèn xong!

Kinh: “Cũng gọi là “Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương, Thập Phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú”.

Thông rằng: Về Viên Giáo thì không gì bằng kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Về Đốn Giáo thì không gì bằng kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Về Phật Mẫu Thần Chú, không gì bằng Chú Đại Chuẩn Đề. Nay kinh Lăng Nghiêm gồm có cả, có thể gọi là pháp môn Cực Viên, Cực Đốn, Cực Bất Khả Tư Nghì vậy. Đại là thường khắp, chỉ Pháp Thân. Phương là nắm trọn, chỉ Bát Nhã. Quảng là rộng trùm, chỉ Giải Thoát. Ba đức Lý, Trí và Dụng đầy đủ, thế chẳng gọi là Viên sao? Hoa sen mọc lên từ bùn dơ mà chẳng nhiễm. Diệu Liên Hoa Vương tức là hoa Ưu Đàm Bát, khác với loại thế gian trồng vậy.

Trong khoảnh khắc gảy móng tay nhập Tri Kiến Phật, đó là hy hữu, chẳng phải là Đốn thì không thể đảm đương. Viên ấy, Đốn ấy chỉ việc gì thế ? Việc ấy không thể nghĩ bàn, tức gọi là Thần Chú của Tâm vậy. Mười phương Như Lai nhờ Chú Tâm này đắc thành Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác, cho đến sau khi diệt độ cùng nhờ Chú Tâm này mà phú chúc việc Phật Pháp v.v... Thì há chẳng phải là chỗ từ đó mà ra của mười phương Chư Phật ư? Nên có thể gọi đó là Phật Mẫu Thần Chú đắc Đại Tổng Trì vậy. Hợp cả ba cái thì Giáo Pháp của cả Đại Tạng Kinh đều gồm đủ.

Tổ Thanh Nguyên Hành Tư một hôm hỏi Ngài Thạch Đầu rằng: “Có người nói “Lãnh Nam có tin tức””.

Ngài Đầu nói: “Có người chẳng nói “Lãnh Nam có tin tức””.

Tổ Nguyên nói: “Nếu thế thì Đại Tạng, Tiểu Tạng từ đâu mà đến?”

Ngài Đầu nói : “Đều từ trong ấy hết!”

Tổ bằng lòng.

Tổ Vân Môn mở lời rằng: “Nháy mắt ngang cả mười phương, trên lông mày suốt đến càn khôn, dưới suốt đến suối vàng. Núi Tu Di lấp nghẹt cuống họng của ông. Có ai hiểu không? Ai mà hiểu được thì đem dẫn xứ Chiêm Thành đánh nhau với xứ Tân La!”

Ngài Diệu Hỉ nói: “Là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú hay trừ tất cả khổ, chân thật không hư. Các ông có rõ Vân Môn không? Há chẳng nghe nói “Tam đài (tam quán) cần phải chính ông thúc giục”.

Tổ Vân Môn, Diệu Hỉ quả là người trong hội, tuyên nói lại Chú Tâm, chỉ ra cảnh giới không thể nghĩ bàn. Ai mà diệu khế ý chỉ này, tự cai quản giữ lấy mà thành Phật không sai!

 

Kinh: “Cũng tên là “Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm”. Ông hãy phụng trì”.

Thông rằng: Muôn Hạnh của Chư Bồ Tát đều đầy đủ, cho đến tất cả Sự rốt ráo kiên cố thì gọi là Quán Đảnh Bồ Tát. Vị Bồ Tát này sắp thành Diệu Giác thì ở trên cõi trời Sắc Cứu Cánh hiện ra tòa Đại Bửu Liên Hoa Vương rộng lớn trăm vạn a tăng kỳ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Bồ Tát muốn lên tòa này trước hết ở trong thân phóng hiện mười đạo quang trăm báu, chiếu soi loài hữu tình, sau cùng từ cửa đỉnh đầu phóng ánh sáng nhập vào chân Chư Phật. Khi ấy, Chư Phật từ nơi mặt phóng ra quang minh trăm báu chảy tuôn rót vào đảnh đầu của vị Bồ Tát ấy, thẳng đến nguồn tâm. Ở đây, chỉ lấy ánh sáng tuôn chảy tương giao hòa nhập mà gọi là Quán Đảnh, thọ lãnh chức vụ Phật.

Ở trước, có nói “Ranh giới của Giác thể nhập vào nhau” tức là cảnh tượng này. Nếu từ địa vị Diệu Giác thì chẳng còn lời nói, duy từ Quán Đảnh trở xuống thì cùng chương cú. Như ánh sáng giao nhập nhau, chương cú cũng không có. Ở trong chỗ không có chương cú mà có chương cú, nên mới gọi là chỗ này là “Diệu Trạm Tổng Trì, Thủ Lăng Nghiêm Vương, đầy đủ muôn hạnh, một đường Diệu Trang Nghiêm siêu xuất của mười phương Như Lai” vậy.

Cho nên, nói “Muôn hạnh đầy đủ” mà sau là “Rốt ráo kiên cố”, đó là Tiệm chứ không phải Đốn. Nói rằng “Tự Tánh kiên cố mà không nhờ muôn hạnh”, đó là Đốn chứ không phải Tiệm. Chẳng hay biết rằng con đường Diệu Trang Nghiêm này vốn tự đầy đủ muôn hạnh trang nghiêm, chẳng mượn đến sự trau làm, tất cả vốn kiên cố. Không phải chỉ có thân tâm trong ngoài đắc Đại Định Lực, mà trong Bản Tánh trùm khắp pháp giới, núi sông, đất đai, sáng tối, sắc không, tất cả mọi sự, tất cả mọi Pháp, hiện đây là tịch diệt, vốn trong Đại Định. Chính đây là Chân Tâm thường trụ, chính đây là Diệu Trạm Tổng Trì, vốn là Viên Đốn, sẵn sàng đầy đủ. Nên gọi đó là Thủ Lăng Nghiêm kinh.

Chưa đến địa vị Quán Đảnh Pháp Vương Tử thì sao mà biết được chỗ nhiệm mầu, bởi thế nói rằng “Ông hãy phụng trì”.

Hòa Thượng Phật Giám khai thị cho đại chúng.

Ngài kể chuyện: “Nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu: “Thế nào là nghĩa chẳng biến đổi?”

“Tổ Châu dùng hai tay làm cách thế nước chảy.

“Nhà sư có chỗ tỉnh ngộ”.

Ngài lại kể chuyện: “Nhà sư hỏi Tổ Pháp Nhãn: “Chẳng giữ lấy tướng, như như chẳng động. Thế nào là chẳng giữ lấy tướng mà thấy chỗ chẳng động đó?”

“Tổ Pháp Nhãn nói: “Mặt trời mọc phương Đông, lặn phương Tây!”

“Nhà sư cũng có chỗ tỉnh ngộ”.

Ngài nói tiếp: “Ngay nơi đó mà thấy được, mới biết rằng “Khí núi trùm non, bổn lai thường lặng. Sông nước cuộn chảy, nguyên tự chẳng trôi”. Chưa được như vậy thì không khỏi lại phải nhiều lời. Thiên xoay trái, Địa chuyển phải, xưa qua nay lại trải bao lần biến đổi. Mặt trời bay qua, mặt trăng chạy mất vừa mới ló trên biển lại chìm sau núi xanh. Sóng sông nước mịt mù, Hoài, Tế [Tên hai con sông] gợn xa xăm, thẳng vào biển cả ngày đêm trôi chảy”.

Rồi lớn tiếng rằng: “Này Chư Thiền Đức, có thấy như như bất động chăng?”

Hòa Thượng Vân Cái Trí khai thị cho đại chúng rằng: “Độc chỉ là cái Thân liền kín kiên cố kia trong tất cả trần bày hiện. Nay đây Vân Cái này nói: Ngàn núi sum xuê, cầm thú hót kêu, trăm hoa đua nở, muôn cây nảy cành, hết thảy đó là Chư Phật, mỗi mỗi Chân Như. Các ông dạo chơi non nuớc phải kịp để con ngươi ngay đó, chớ để bị nó lừa!”

Hai vị tôn túc ấy, ngay trong tất cả trần cảnh mà nắm ra cái như như chẳng động, cái Thân chân thật liền kín kiên cố. Ấy là chẳng lìa muôn Hạnh mà đắc rốt ráo kiên cố, quả là thâm nhập ý chỉ Lăng Nghiêm vậy. Ở chỗ này mà cắn nát được mới được gọi là phụng trì. Còn bám suông chương cú, chưa biết lối vào thì dù có trang nghiêm muôn Hạnh, rốt cuộc cũng là chuyện sanh diệt. Trong Tự tánh kiên cố, Diệu Trạm Tổng Trì sao những cách xa như trời đất vậy ư?


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12520)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14113)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10856)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10525)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11199)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12007)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13157)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13644)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33677)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13064)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11635)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17902)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11450)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11866)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11514)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18981)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12558)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11349)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15784)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11825)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11702)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12639)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13974)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13002)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12953)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13303)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12779)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12704)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11758)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11740)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12331)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12389)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19832)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11967)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16893)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12678)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15066)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16128)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12886)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12247)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11921)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11930)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13156)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16513)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12501)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11827)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19866)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11166)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11265)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10407)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11102)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10974)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10041)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11758)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant