Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Vô Tự Bảo Khiếp

27 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 23262)
Kinh Vô Tự Bảo Khiếp

KINH VÔ TỰ BẢO KHIẾP
Hán dịch: Nguyên Ngụy, Thiên Trúc Tam Tạng, Pháp Sư Bồ Ðề Lưu Chi
Việt dịch: Thích nữ Thuần Hạnh.
 Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Ðỗng Minh,
Tỳ kheo Thích Tâm Hạnh.

--- o0o --- 

kinhvotubaokhiep-thichnuthuanhanhTôi nghe như vầy ! Một thời đức Thế Tôn trú trong núi Kỳ Xà Quật ở thành Vương Xá. Bấy giờ có vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ tát vây quanh Như Lai, đều là bậc đại trí, phương tiện quyền xảo, dõng mãnh tinh tấn, pháp môn Vô Tự thông đạt hoàn hảo, thanh tịnh thị xứ, phi xứ, tàm quí thoát khỏi sự che lấp ràng buộc, điều phục các căn bằng ngà từ bi. Ðem ngà tàm quí thương xót chúng sanh, đắc đại tam muội, lấy trí huệ làm đầu, tôn kính trí huệ như bảo châu, hay kho tàng báu lớn, đều biết hoàn hảo về phép thiện, bất thiện, hiểu rõ việc ba đời, tất cả đều thành tựu biện tài Vô Tự, đạt đến nhị không, thù thắng vi diệu. Học hiểu các đế, thông đạt thật tế, dõng mãnh vô biên, không chỗ chấp trước, đều thông đạt tự tánh thượng pháp, tư duy hoàn hảo hai pháp môn thật và bất thật. Sanh bằng thai tạng, vĩnh viễn thoát ly sanh tử, hiểu hoàn hảo pháp bí mật, rõ biết các tướng. Giúp đỡ các nước, được danh xưng lớn tiếng tăm vang rộng, đắc vô ngôn tạng, ngủ nghỉ luôn luôn được an ổn, bố thí làm cho tất cả đều được an lạc. Ai nghe danh tánh thì rời khỏi ba cõi, có thể cứu chúng sanh đang ở ba cõi, hiểu rõ hoàn hảo về chơn như, biểu thị hạnh Phổ Hiền biến thân cùng khắp, các căn thanh tịnh, hiểu rõ thông đạt thân mình, thân người, đều được thành tựu trí huệ sáng suốt.

 Ðó là Bồ tát Thắng Hưởng, Bồ tát Pháp Hưởng, Bồ tát Thắng Chư Phần, Bồ tát Pháp Nhãn, Bồ tát Thiên Tướng, Bồ tát Biện Tụ, Bồ tát Thắng tư Duy, Bồ tát Trì Ðịa, Bồ tát Trì Ðịa Tế, Bồ tát Thâm Nhập Ðịa Tế Hưởng, Bồ tát Ðịa Hưởng, Bồ tát Cụ Biện, Bồ tát Thượng Tích, Bồ tát Hoa Mục, Bồ tát Ưu Bát La Mục, Bồ tát Ðảnh Kế, Bồ tát Văn Thù Hưởng. Chư Ðại Bồ tát như vậy không thể tính kể, đều là đồng tử từ phương khác không thể quán sát hết, hằng hà sa các thế giới đến tập họp. Tất cả đều an trú lãnh thọ pháp vương, chức vị thái tử.

 Bồ tát Thắng Tư Duy, có vô lượng Thích, Phạm vây quanh, Bồ tát Phổ Hiền Hư Không Tạngbốn đại thần vương và vô lượng chuyển luân thánh vương vây quanh. Bồ tát Ðắc Ðại Thế Chí, Quán Thế Tự Tạivô lượng Phạm chúng vây quanh. Bồ tát Bất Không Kiến có nhiều vô lượng Tỳ Sa Môn Vương vây quanh. Bồ tát Tinh Tú Vươngvô lượng tinh tú và các vị hộ đời khác vây quanh. Lại có Bồ tát Phá Nghi, Bồ tát Diệt Nhất Thiết Chướng, tự thân thị hiện thân Như Lai, vây quanh vô lượng chư Phật.

 Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền Liên, Ðại Ca Diếp.v.v... tất cả đều là đại A la hán. Bồ tát Chơn Luyện, Bồ tát Thắng tư Duyvô lượng thiên nữ vây quanh. Bồ tát Dược Vương, Bồ tát Dược Thượngvô lượng quyến thuộc vây quanh trong khắp mười phương hằng hà sa thế giới.

 Có cả mặt trăng mặt trời, tự thị oai đức của mình nên sanh lòng ngã mạn, tất cả đều đến chỗ Phật. Ðến chỗ Phật rồi đứng một bên ở trước Như Lai liền tự thấy thân mình không có hào quang, giống như màu đen ở gần bên vàng Diêm phù na đề. Các mặt trăng, mặt trời này ở trước Như Lai, không tự hiển lộ hào quang cũng như vậy. Không còn lòng muốn đứng cũng không muốn nói, không có oai đức, không thể hiển lộ, còn có na la diên.v.v... vây quanh nữa. Ðại thần, long thần, Ðắc Xoa Ca A Na Bà Ðạt Ða.v.v.. các đại long vươngvô lượng loài rồng vây quanh. Thiện Âm Càn thát bà vươngvô lượng ức Càn thát bà vây quanh. Vô yểm Túc Ca Lầu La vương cũng có bảy ức Ca lầu la vây quanh đến chỗ Phật.

 Ba ngàn đại thiên thế giới, các Bồ tát ở trong hằng hà sa thế giới. Các vị ở chốn kia đều cung thỉnh đức Phật. Thỉnh Phật rồi, bốn chúng vây quanh đến cõi Ta Bà. Ðem phẩm vật xuất thế gian đến chỗ Phật cúng dường. Các vị Bồ tát cúng dường Phật rồi, mỗi vị tự ngồi trên tòa hoa sen.

 Bấy giờ, có Ðại Bồ tát tên là Thắng Tư Duy, đến chỗ Phật bạch rằng:

 Bạch Thế Tôn ! Xin Ngài hứa khả lắng nghe cho con, con mới dám hỏi Như Lai hai điều.

 Phật dạy Bồ tát Thắng Tư Duy :

 - Ta lắng nghe thầy hỏi, thầy cứ tùy ý hỏi; Như Lai vì tất cả chúng sanh nên thành đạo ở đây, chính vì các vị, bậc đại long tượng, nên Ta xuất hiện ở đây.

 Bồ tát Thắng Tư Duy bạch Phật :

 - Bạch Thế Tôn ! Một pháp gì là sự trừ diệt của Bồ tát? Một pháp gì là sự chứng ngộ của Như Lai?

 Thế Tôn khen ngợi Ðại Bồ tát Thắng Tư Duy :

 - Lành thay ! Lành thay ! Phạm thiên ! Thầy đã thuần thục vô lượng thiện căn, nhờ chư Phật hộ trì nên hỏi nghĩa này. Thiện nam tử ! Nay ông lắng nghe và khéo suy nghĩ. Ta sẽ vì ông mà thuyết.

 Bồ tát Thắng Tư Duy đảnh lễ sát chân Như Lai mà thọ trì.

 Phật dạy :

 - Thiện nam tử ! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn. Thiện nam tử ! Lại có một pháp Bồ tát nên diệt trừ, đó là pháp sân. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn. Thiện nam tử ! Lại có một pháp Bồ tát nên diệt trừ, đó là pháp si. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn. Thiện nam tử ! Lại có một pháp Bồ tát nên diệt trừ, đó là ngã kiến. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn. Thiện nam tử ! Lại có một pháp Bồ tát nên diệt trừ, đó là giải đãi. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn. Thiện nam tử ! Lại có một pháp Bồ tát nên diệt trừ, đó là thùy miên. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn. Thiện nam tử ! Lại có một pháp Bồ tát nên diệt trừ, đó là tham ái. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn. Thiện nam tử ! Bồ tát lại phải diệt trừ một pháp, đó là vô minh. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.

 Bấy giờ, Phạm thiên Thắng Tư Duy bạch Phật :

 - Bạch Thế Tôn ! Một pháp gì mà các Bồ tát ngày đêm thường phòng hộ?

 Khi ấy, Thế Tôn dạy Bồ tát Thắng Tư Duy :

 - Thiện nam tử ! Ðiều gì mà Bồ tát không muốn đến với mình chớ nên bảo người khác làm. Thiện nam tử ! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào hộ trì pháp này thì thiện nam, thiện nữ kia hộ trì tất cả giới tạng của Như Lai. Vì sao? Thiện nam tử! Vì yêu mến thân mạng mình thì không sát sanh, tiếc mến tài sản mình thì không trộm cướp, yêu thương vợ mình thì không xâm tổn đến vợ người. Thiện nam tử ! Các chúng sanh này phát tâm như vầy: “Ta kính thuận chánh pháp Như Lai”. Thiện nam tử kia thường nên siêng năng để tâm phòng hộ pháp này. Nghĩa này thế nào? Thiện nam tử! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào, muốn cầu Ðại Bồ đề Vô Thượng Ðẳng Chánh Giác, tức là người kia cầu sự an lạc, mà không có cầu khổ não nơi thân. Ở thế gian chỉ có vui, người hưởng thọ niềm vui. Chính là nghĩa này Ta đã thuyết “Các vị nên biết điều không muốn đến với mình, chớ nên cho người khác”. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp, Bồ tát thường nên ngày đêm phòng hộ điều đó.

 Thiện nam tử! Theo chỗ ông hỏi, một pháp gì là sự chứng ngộ của Như Lai? Thiện nam tử! Không có một pháp gì là sự giác ngộ của Như Lai. Thiện nam tử! Ðối với pháp không giác thì Như Lai giác. Thiện nam tử! Tất cả pháp bất sanh thì Như Lai chứng giác. Tất cả pháp bất diệt thì Như Lai chứng giác.

 Lại nữa, thiện nam tử ! Pháp tánh xa lìa nhị biênNhư Lai chứng giác, tất cả pháp không thật mà Như Lai chứng giác. Thiện nam tử ! Như Lai khéo thuyết nhơn duyên nghiệp báo. Như Lai khéo chứng nhơn duyên nghiệp báo. Sự triền phược của tất cả pháp nhơn duyênNhư Lai giác ngộ. Thiện nam tử ! Nhơn duyên ấy giống như ánh chớp mà Như Lai giác ngộ, xa lìa nhơn, xa lìa duyên. Như Lai thuyết không có nghiệp báo đã được thọ ký thành Chánh Giác. Tất cả pháp sâu rộng trang nghiêm. Ðây là sự thuyết pháp của Như Lai.

 Thiện nam tử ! Dùng nghĩa gì để giảng thuyết trang nghiêm sâu rộng. Trí tuệ của thế gianxuất thế gian. Trí huệ đó từ đâu sanh? Khi trí tuệ đó dùng chơn thật quán sát chánh quán Bát nhã Ba-la-mật là thậm thâm. Bấy giờ, pháp ấy được gọi là Mật tàng.

 Thiện nam tử ! Ta cũng lại thuyết tất cả pháp như huyễn như ánh lửa. Sự giác ngộ của Phật là Pháp của tánh tướng đều một vị giải thoát. Sự giác ngộ của Phật là sở hữu của tánh tướng đều một vị giải thoát. Là tất cả pháp sâu rộng trang nghiêm.

 Thiện nam tử ! Nếu thiện nam, thiện nữ nào, lại có một pháp là sự giác ngộ của Phật. Thiện nam tử ! Ðó là các pháp không đi không đến, không nhơn không duyên, không sanh không diệt, không tư duy điều chẳng tư duy, không tăng không giảm.

 Thiện nam tử ! Nếu pháp rốt ráo thì pháp tánh của tự tánh chẳng phải là tự tánh. Pháp thí dụ không thể thuyết. Nếu dùng danh tự cũng không thể thuyết. Ðây là một pháp mà Như Lai giác ngộ.

 Khi Phật thuyết pháp môn Quảng Nghiêm Thượng Vương Vô Tự Bảo Khiếp Quang Nghiêm này, có vị chứng đắc an trụ nơi thập địa Bồ tát, nhiều như số vi trần, mắt thường cũng không thể thấy hết. Các chúng như vậy đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Các chúng sanh như vầy chứng quả A la hán. Lại hơn số chúng sanh này xả bỏ khổ địa ngục sanh vào trong cõi trời. Vô lượng chư vị Bồ tát hiện tại chứng trăm ngàn vạn các pháp môn tam muội. Huống chi Ngài thuyết nhiều thì được lợi ích vô lượng.

 Bấy giờ, Phật dạy La Hầu La :

 - Thầy có thể thọ trì nghĩa chánh pháp này mà Ta đã thuyết không?

 Khi Phật thuyết lời này, do thần lực của Phật, chín ức Bồ tát trong hằng hà sa thế giới, từ chỗ ngồi đứng dậy liền bạch Phật :

 - Bạch Thế Tôn ! Chúng con đều có thể thọ trì pháp môn này. Nay ở trong thế giới Ta Bà này, trong thế giới vị lai vì các chúng sanhlưu truyền không dứt, biết Bồ tát là người trí tuệ tài năng.

 Bấy giờ, bốn đại Thiên Vương bạch Phật :

 - Bạch Thế Tôn ! Chúng con cũng có thể thọ trì pháp nghĩa Như Lai đã thuyết. Nay sở cầu của Bồ tát kia đã đầy đủ, ở trong đây là bậc trí tuệ tài năng.

 Khi ấy, Thế Tôn quán sát tất cả chúng sanh ở cùng khắp rồi dạy như vầy :

 - Thiện nam tử ! Ta chẳng phải chỉ tu chút đỉnh thiện cănthành chánh giác. Các chúng sanh kia nếu có thể nghe chánh pháp này, cũng chẳng phải là tu chút ít thiện căn. Nên thọ trì pháp môn Quảng Báo Nghiêm Thượng Vương Vô Tự Bảo Khiếp. Nếu ai nghe kinh này thì người ấy đã cung kính, tôn trọng, ca ngợi Ta rồi. Thiện nam tử ! Thiện nam, thiện nữ này hai vai gánh vác Bồ đề, người kia đắc biện tài không dứt, thanh tịnh các cảnh giới Phật. Khi mạng chung được thấy Phật A Di Ðà, đại chúng Thanh văn, Bồ tát vây quanh hiện ở trước người đó, cũng thấy thân Ta ở trong núi Kỳ Xà Quật này và thấy chúng Bồ tát đây. Thiện nam tử ! Thiện nam, thiện nữ kia tự mình chứng đắc đại pháp bảo tàng, không thể dứt tận, được túc mạng trí, không sanh vào đường ác.

 Thiện nam tử ! Nay Ta thuyết điều chưa từng có trên thế gianpháp môn khó tin này. Thiện nam tử ! Nếu thiện nam, thiên nữ nào giả sửphạm tội nghịch nên đọc tụng, thọ trì pháp môn thù thắng này một cách hoàn hảo. Hoặc tự viết chép hoặc khuyên bảo người viết chép. Tự mình đọc tụng, khuyên người đọc tụng. Tự mình thọ trì, khuyên người thọ trì. Thiện nam tử ! Ta nói người này không còn thấy đường ác nữa, được tất cả chư Phật thọ ký.

 Các Bồ tát kia đều đắc ngũ nhãn, các căn đầy đủ được tất cả chư Phật hộ niệm, được tất cả Bồ tát bảo vệ. Làm cho diệt trừ vô lượng phiền não, nghiệp chướng, tức được thanh tịnh.

 Thiện nam tử ! Những lời thuyết pháp của Ta là sự thuyết pháp tối hậu. Từ khi Ta đắc đạo đến khi thành Chánh giác, chưa thuyết lời này.

 Phật thuyết kinh này rồi, Bồ tát Thắng Tư Duy và các Ðại Bồ tát, vua Ðế Thích, chư thiênbốn đại Thiên Vương, người, trời, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Càn thát bà.v.v... tất cả thế gian nghe lời Phật thuyết đều rất hoan hỷ.

KINH VÔ TỰ BẢO KHIẾP - hết

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33292)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6555)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11304)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30417)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30445)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7994)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12220)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12269)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11619)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12849)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34810)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9858)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52283)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10763)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10535)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10728)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13096)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16304)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21864)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9635)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7137)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12781)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12804)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16248)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16547)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13877)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16613)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12140)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13847)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14339)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9225)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11767)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11290)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16352)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14367)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16211)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12096)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11806)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15684)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11526)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14030)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12024)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12673)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15005)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11974)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13141)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14566)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20741)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13247)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10977)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20731)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14379)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20406)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17674)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31870)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12028)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant