Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đức Phật

15 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10318)
Đức Phật



ĐỨC PHẬT

Trong bầu không khí tôn giáo như vậy, Đức Phật xuất hiện. Là một thái tử sống trong cảnh xa hoa, Ngài bắt đầu suy tư sâu xa tại sao chúng sanh lại đau khổ trên cõi đời này. Cái gì là nguyên nhân của khổ đau? Ngài tự hỏi. 

Một hôm Ngài ngồi dưới một gốc cây khi Ngài còn là một thiếu niên, Ngày nhìn thấy một con rắn bất thình lình xuất hiện và bắt một con nhái.Trong lúc con nhái và con rắn đang tranh đấu với nhau, một con diều hâu từ trên trời xà xuống và bắt con rắn trong khi con rắn còn đang ngậm con nhái trong miệng. 

Sự việc này là khúc ngoặt của vị thái tử trẻ tuổi để từ bỏ cuộc đời trần tục. Ngài bắt đầu nghĩ ngợi làm sao cho chúng sanh trên mặt đất cũng như dưới nước thoát cảnh làm mồi cấu xé ăn thịt lẫn nhau. Đời sống này đang cố tranh cướp đời sống kia, đời sống nọ đang cố vẫy vùng để thoát hiểm, cuộc tranh chiến bất tận này cứ thế tiếp diễn mãi theo thời gian khi thế giới còn tồn tại. Phương pháp săn mồi bất tận này, và phương pháp tự bảo vệ này là căn nguyên niềm bất hạnh của chúng ta. Đó là nguồn gốc khổ đau. Thái tữ quyết định phải tìm phương thức để chấm dứt khổ đau này.

TỪ BỎ THẾ TỤC

Ngài nghiên cứu học hỏi nhiều thầy của nhiều tôn giáo khác nhau và thấy tất cả những gì các vị thầy đã dạy cũng không thể tìm được phương cách chấm dứt khổ đau. Ngài đã bỏ nhiều năm tháng suy tư về câu hỏi này. Cuối cùng vào năm Ngài 29 tuổi, chứng kiến cảnh già, bệnh, chết và niềm tự do qua việc từ bỏ (thế tục), Ngài quyết định nếu không bỏ mối bận tâm, trách nhiệmdục lạc của cuộc đời trần tục thì Ngài sẽ không thể tìm được câu trả lời. Cho nên tại sao Ngài rời bỏ cung điện thực hiện cái được gọi là “Sự Từ Bỏ Vĩ Đại”. Sau sáu năm phấn đấu, thời gian tiêu biểu cực điểm của dòng đời bất tận, trau dồi và phấn đấu để mở mang trí tuệ, cuối cùng Ngài đạt được giác ngộ và hiểu được bí mật sự khổ đau của chúng ta. Đó làsự tiên khởi của một “hệ thống tôn giáo” khác. Nhưng đó là một tôn giáo không giống bất cứ tôn giáo nào con người từng biết trong quá khứ

Thật ra hiện tại có nhiều người không thích gọi đạo Phật là một tôn giáo, vì lẽ chữ “tôn giáo” gợi lên một số lớn các xúc cảm tiêu cực trong tâm trí họ.

NIỀM TIN VÀ SỰ HÀNH ĐẠO TẠI ẤN ĐỘ THỜI CỔ

Không có lý do nào cho Đức Phật lại giới thiệu thêm một tôn giáo nữa vì vào thời đó, 2600 năm trước đây, riêng tại Ấn đã có đến 62 tôn giáo. Những tôn giáo hiện hữu trong thời gian đó đã không thể giải đáp đượccâu hỏi của Đức Phật nên ngài quyết định không dùng các chất liệu hay quan niệm của các tôn giáo đó để trình bày những gì chính Ngài đã đạt được.

Trong thời gian đó, các tôn giáo tại Ấn nghĩ gì ? “Thượng đế tạo ra tất cả mọi người. Thượng đế chịu trách nhiệm tất cả mọi việc. Thượng đế ban thưởngtha thứ tội lỗi của chúng ta. Thượng đế chịu trách nhiệm về cuộc đời chúng ta sau khi chúng ta chết ; Thượng đế sẽ cho ta lên thiên đường hay bắt ta xuống địa ngục”.

Trên đây là những chất liệu căn bản của tất cả các tôn giáo thời đó và ngay cả hiện tại nữa. Đồng thời cũng có một số tôn giáo tại Ấn dạy các tín đồ mình phải hành hạ thể xác, cho rằng làm như vậy có thể rửa sạch tội lỗi trong cuộc sống và có thể lên thiên đàng sau khi chết. Một số tôn giáo khác lại cổ vũ việc dùng nghi thức, nghi lễ và đem hy sinh các súc vật dâng cúng để làm vừa lòng các đấng thiêng liêng. Những người theo tôn giáo trên tin tưởng là làm như vậy sẽ được lên thiên đường. Một số tôn giáo khác lại dùng cách thức cầu nguyện, lễ bái, xin được tha thứ các tội lỗi họ đã phạm. 

Đức Phật không công nhận hiệu quả của các việc hành đạo này.

ĐỨC PHẬT CÓ HỨA HẸN GÌ KHÔNG ?

Đức Phật không hứa hẹn hạnh phúc tuyệt đối hay ban thưởng cho những ai tự nhận là tín đồ của Ngài và Ngài cũng không hứa hẹn cứu rỗi cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài. Với Ngài, tôn giáo không phải là sự mặc cả, mà là con đường sống cao thượng để đạt đến giác ngộgiải thoát. Đức Phật không muốn các tín đồ của Ngài tin tưởng trong mù quáng. Ngài muốn chúng sanh phải biết suy nghĩ và thấu hiểu. Phật Giáocon đường cao thượng cho đời sống mà nơi đó, nhân đạo, bình đẳng, công bằngan lạc chiếm vị trí tối thượng. Cừu hận, ác cảm, chỉ trích, và oán giận hoàn toàn xa lạ với Giáo Lý của Ngài.

Thế giới mang ơn Đức Phật do việc Ngài nêu cao sự hợp lý chống lại những dị đoan trong tôn giáo. Phải chăng chính Ngài đã giải thoát con người khỏi vòng áp chế của các thầy tu? Phải chăng chính Ngài là nguời đầu tiên chỉ con đường giải thoát cho con người thoát khỏi những sợi dây trói buộc của đạo đức giả và của chính sách độc tài trong tôn giáo?

Trong thời gian Đức Phật tại thế không có việc hành đạo nào được coi là cao hơn tập tục lễ nghi và việc đem tính mạng của chúng sanh cúng cho các đấng thiêng liêng ; nhưng với Đức Phật, không có việc hành đạo nào có thể làm mất phẩm giá con người hơn thế . Việcđem sanh mạng làm vật hy sinh không khác gì hơn là việc hối lộ ; và sự cứu rỗi bằng hối lộ, tham nhũng không phải là sự cứu rỗi mà bất cứ con người tự trọng nào lại muốn có.

THUẬT NGỮ TRONG TÔN GIÁO

Nhưng trong khiđem trình bày giáo lý, đức Phật đã dùng những từ ngữ tôn giáo thông dụng tại Ấn thời đó vì lẽ bằng cách này Ngài trở nên gần gũi với những người nghe. Những người này hiểu rõ được Ngài muốn ám chỉ đến gì và Ngài có thể triển khai ý nghĩa căn bản của Ngài từ một lập trường đại chúng.

Pháp, Nghiệp, Niết Bàn, Giải Thoát, Địa Ngục, Luân Hồi, Ngã là những chữ rất thông dụng trong tất cả các giáo phái thời đó. Nhưng trong giáo lý của Ngàiù, Đức Phật đã giảng dạy những từ đó với ý nghĩa độc đáo và hết sức hợp lý.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15250)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12003)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10510)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16418)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11727)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12664)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12783)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17883)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12940)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10216)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15188)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14150)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24418)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10590)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant