Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần Tám: Phân biệt các ma sự

17 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11403)
Phần Tám: Phân biệt các ma sự


PHẦN TÁM
NHẬN BIẾT CÁC MA SỰ


Ma theo tiếng Phạn là Ma-la (Mara), tức là loài hung dữ, cướp công đức và giết huệ mạng của người tu hành. Ma thường phá hoại thiện căn của chúng sanh, khiến cho trôi lăn trong đường sinh tử.

Ma có bốn thứ là:

Phiền não ma.
Âm nhập giới ma,
Tử ma
Quỷ thần ma.

Ba thứ ma trên là thường sự thế gian, theo tự tâmsinh tử nên giữ chánh niệm thì trừ bỏ được. Duy chỉ có loại quỷ thần ma là đáng chú tâm hơn cả.

Quỷ thần ma có ba thứ:

1. Tinh mî - là những thú vật biến hóa ra nhiều hình sắc, hoặc hóa ra người thiếu nữ, hoặc hóa ra vị tôn túc, cho đến hóa ra những thân rất đáng kinh sợ. để khuấy phá những người tu hành. Khi biết được nó là loài tinh mî thú vật, thì chỉ tên quở trách là tự nó tiêu diệt.

2. Đôi dịch quỷ - là loài làm nhiều việc quấy rối ngươì tu hành, hoặc hóa ra nhiều con sâu, con bò cạp đậu trên đầu, trên mặt, chích đốt liên tiếp, hoặc gõ và cù trong hai nách, hoặc bỗn nhiên làm những tình trạng các thú vật để khuấy rối người tu hành. Khi nhận biết được thì nên nhất tâm nhắm mắt, thầm quở trách nó: "chúng mày là giống tà ma, thích việc phá giới, nay ta trì giới quyết không sợ mày." Rồi tụng các giới bổn, như người tại gia trì tụng tam quy, ngũ giới . thì quỷ sẽ khúm núm rút lui. Nếu tụng giới mà quỷ chưa chịu rút lui, thì nên nhất tâm niệm Phật, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm, hoặc niệm các vị Kim Cương Tạng Vương Bồ Tát, thì ma cảnh tự tiêu diệt.

3. Ma não - Giống ma này phần nhiều hóa ra ba thứ cảnh giới ngũ trần để làm rối loạn người tu hành. Bọn ma này cũng gọi là Ngũ tiển - nghĩa là năm cái tên bắn vào ngũ tình vật. Ma hóa ra ba cảnh giới đó là:

a)Ma hoá ra những việc trái ý, những ngũ trần đáng sợ như cọp, sư tử, la sát, khiến cho người tu hành phải khiếp sợ

b)Ma hóa ra những việc vừa lòng, những ngũ trần đáng ưa, khiến cho tâm sinh ái trước, như hóa ra cha mẹ anh em, hình tượng chư Phật, hoặc những người con trai, con gái xinh đẹp.

c)Ma hóa ra những cảnh bình thường, cốt để làm cho tâm loạn động, mất hết thiền định.

Ngoài ra, ma có thể hóa ra tiếng hay, tiếng dở, mùi thơm, mùi thối, vị ngon, vị dở, những cảm xúc khó chịu.. Để làm cho hành giả rối loạn, để phá hoại Phật Pháp bình đẳng, khiến lòng sinh ra ham muốn, lo sầu, giận ghét, thiếp ngủ.

Hành giả muốn trừ bỏ những ma sự đó, thì phải thực hành Chỉ Quán. Thực hành Chỉ Quán thì nhận biết tất cả ma cảnh đều là hư huyễn. Không lo, không sợ, không trước, không xả khi tâm phân biệt dừng nghỉ, thì các ma cảnh tự tiêu diệt. Nếu thực hành pháp Chỉ mà chưa diệt được thì dùng phép Quán, quán các thứ ma cảnh đều do phân biệt hiển hiện, trở lại quán cái tâm phân biệt, không thấy tướng mạo thì còn ai bị khuấy phá nữa. Nếu các ma cảnh không chịu tiêu trừ thì nên giữ vững chánh niệm, không sinh sợ hãi, không tiếc thân mạng, biết tánh chân như của ma cảnh cũng tức là tánh chân như của Phật giới, một Như chứ không có hai Như. Biết được như thế thì không sinh lòng thủ, xả, Phật Pháp tự nhiên hiện bày, ma cảnh tự nhiên tiêu diệt.

Lại thấy ma cảnh không diệt, cũng không cần lo sợ, nếu thấy ma cảnh diệt trừ cũng không có gì vui mừng. Vì sao vậy? Vì chưa hề thấy người tọa thiền bị những giống cọp do ma hóa ra ăn thịt, cũng chưa từng thấy những người con trai, con gái, do ma hóa ra lại có thể thành chồng thành vợ. Đó chỉ là những cảnh huyễn hóa, chỉ vì hành giả không rõ nên mới sinh lòng lo sợ, tham trước mà thôi. Sinh tham trước, kinh sợ thì tâm loạn động, đến nôĩ mất cả thiền định, trở nên điên dại. Đó là người tu hành không có trí, tự gây tai họa cho mình, chứ không phải do ma gây ra tai họa.

Hành giả giữ vững chánh niệm, không tiếc thân mạng, thường niệm Tam Bảo, thường tụng các Kinh Đại thừa thì ma cảnh quyết định sẽ tiêu diệt.

Ma cảnh rất nhiều, không thể nói hết được. Nó có thể khiến hành giả tâm thần điên loạn, hoặc mừng, hoặc lo, nhân đó mà sinh bệnh đến chết. Hoặc cho có những tà định, tà trí, tà thần thông, thuyết pháp dạy người, làm họ tín phục, nhưng về sau thì phá hoại chánh pháp, phá hoại các thiện sự xuất thế gian. Vì thế hành giả nên thân cận thiện trí thức để kịp thời nhận biết các ma sự. Nếu người tu hành diệt trừ vọng tưởng, không nhận các cảnh giới hư huyễn là thật, nếu quán được thật tướng của các pháp, khéo thực hành Chỉ Quán thì không có ma sự nào khuấy phá được. Thích Luận có nói: "Ngoài thật tướng các pháp tất cả đều là ma sự", hoặc như trong câu kệ:

"Nếu nhớ tưởng phân biệt,
Thì sa vào lưới ma;
Không động, không phân biệt,
Thì đó là Pháp ấn".

Với Pháp ấn vô phân biệt, không còn có ma sự nào cả.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11535)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10668)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17864)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12268)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14212)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11999)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11883)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10508)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12561)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19478)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13022)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11725)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13407)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11521)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12779)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12092)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19532)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10589)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant