Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 12

12 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 10669)
Quyển 12


THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO

(CHƯ KINH YẾU TẬP)

No. 2123

thien_ac_nghiep_bao_0


QUYỂN 12 

XX. DỤC CÁI[36]

Gồm ba phần: Lời dẫn, Năm dục[37], Năm triền cái.

XX.1. Lời dẫn

Xét trong kinh luận thì người tu đạo đều cho rằng ngũ dục chính là gốc rễ chướng ngăn gốc thánh đạo, nếu không đoạn trừ thì không thể nào chứng được quả thánh. Cội rễ ấy chính là năm căn, năm trần và năm thức, do căn trần tiếp xúc sinh ra.

Do ba loại này mà sinh ra nhiễm dục, cho nên kinh Niết-bàn ghi: “Này thiện nam! Thí như voi ác chưa được điều phục, nếu có người cưỡi, nó sẽ không tuân theo, bỏ xóm làng, chạy vào rừng hoang; cũng thế, người không khéo nhiếp phục năm căn, sẽ dẫn dắt người lìa bỏ thành trì niết-bàn đến chốn đồng hoang sinh tử. Thiện nam tử! Thí như gian thần xúi dục vua làm ác, gian thần ngũ căn cũng thế, thường xúi dục chúng sinh tạo vô lượng ác. Như đứa con hư hỏng, không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, sư trưởng,[108c] thì không có điều ác nào mà không làm; cũng vậy, người không điều phục năm căn, không nghe theo lời dạy tốt đẹp của sư trưởng thì không có điều ác nào mà không gây tạo.

Thiện nam tử! Hàng phàm phu không điều phục năm căn, thường bị bọn giặc địa ngục, ngạ quỷsúc sinh làm hại, cũng như kẻ cừu oán, trộm cắp hại người lương thiện”.

Kinh Di giáo ghi: “Năm căn gây họa đến nhiều kiếp, tai hại rất nặng, cần phải thận trọng! Thế nên, người trí chế ngự, không chạy theo, canh giữ nó như giặc. Nếu buông lung năm căn, thì chẳng bao lâu sẽ bị chúng phá hoại tất cả”.

Cái là ngăn che, nghĩa là hành giả bị nó ngăn che làm cho tâm tính mê mờ, định tuệ không sáng tỏ, nhận chìm người thiện, là chướng ngại chính đối với người tu đạo.

Vì thế, luận Ðối pháp ghi: “Cái khiến cho điều thiện không hiển lộ, che lấp tâm tính, làm chướng ngại, không cho các tâm thiện hoạt động”. Năm dục nói ở trước, phát sinh từ năm trần, năm cái này phát sinh từ năm căn.

XX.2. Năm dục

Phần này có ba ý

XX.2.1. Khổ do dục trói buộc

Do có năm căn, nên dễ dàng phát sinh năm dục trói buộc chúng sinh khiến không thể giải thoát. Do đó, kinh Niết-bàn ghi: “Phàm phu bị năm dục trói buộc, để ma ba-tuần tự do dẫn đi, như người thợ săn bắt khỉ vượn mang về nhà. Thiện nam tử! Giống như quốc vương, khi ở trong nước của mình, tất nhiên thân tâm luôn được an lạc, nhưng nếu đến nước khác thì phải chịu những khổ đau. Cũng vậy, tất cả chúng sinh ở trong cảnh giới của mình thì sẽ được tự do, an lạc; nhưng nếu đến cảnh giới khác thì sẽ gặp ác ma, chịu nhiều thống khổ. Cảnh giới của chính mình là bốn niệm xứ[38], cảnh giới khác là năm dục”.

Năm dục là sắc, thanh, hương, vị và xúc được nhận biết ở nơi thân của người nam và nữ. Dục nghĩa là mong cầu; vì tham đắm năm trần nên gọi là dục; còn tất cả các cảnh mà ý căn tiếp xúc, gọi là pháp trần. Sáu trần này không chỉ là chỗ hoạt động của ma, mà còn là ác tặc. Cho nên kinh Niết-bàn ghi: “Như sáu tên giặc lớn có thể cướp hết tài sản của muôn dân; cũng vậy, giặc cướp sáu trần có thể cướp hết tài sản thiện của chúng sinh. Sáu tên giặc lớn, nếu đột nhập vào nhà người thì sẽ cướp hết tài sản hiện có của họ, không kể tốt hay xấu, khiến nhà giàu bỗng chốc sẽ trở thành nghèo khổ. Cũng vậy, bọn giặc sáu trần, nếu đột nhập vào năm giác quan của người, thì có thể cướp đoạt hết tất cả pháp thiện. [109a] Khi pháp thiện mất hết thì nghèo cùng côi cút, làm kẻ nhất-xiển-đề. Vì thế, bồ-tát xem sáu trần như sáu tên giặc lớn”.

XX.2.2. Khổ do dục chướng ngại

Lỗi của dục là tệ ma năm dục và ác tặc sáu trần. Ðức Phật cho những thứ đó là phiền não điên đảo, ngăn che Phật tính.

Kinh Niết-bàn ghi: “Năm thức của chúng sinh tuy chẳng phải nhất niệm, nhưng đều là hữu lậu, tà kiến điên đảo, làm tăng trưởng lậu hoặc. Tất cả phàm phu đều tham đắm sắc, thức v.v... Vì đắm trước sắc nên sinh tâm tham; do sinh tâm tham mới bị sắc cho đến thức trói buộc, do bị trói buộc nên không thể thoát khỏi tất cả những phiền não khổ đau sinh, lão, bệnh, tử và ưu bi”.

Lại ghi: “Bồ-tát tự cho là giữ giới thanh tịnh, tuy không chuyện trò, cười nói bỡn cợt, nhưng thích nghe giọng nói của người nữ; hoặc thấy người nam đi theo người nữ, hay thấy người nữ đi theo người nam liền khởi tâm tham đắm. Bồ-tát ấy đã nhiễm pháp dục, phá hủy tịnh giới, ô nhiễm Phạm hạnh, khiến giới bị cấu uế, không được gọi là tịnh giới trọn vẹn”.

Như luận Trí độ ghi: “Bồ-tát quán sát các thứ bất tịnh, trong những mối nguy hại thì người nữ là nguy hại nhất. Những thứ như dao, lửa, giông tố, sấm sét, oan giarắn độc còn có thể gần được; chứ người nữ đầy dẫy tham lam, keo kiệt, giận dữ, dua nịnh, đấu tranh ganh tị, không nên gần gũi. Vì sao? Vì người nữ là tiểu nhân, tâm trí cạn cợt, chỉ thích gần với dục, không màng đến danh tiếng, phú quý, trí đức; chuyên hành dục ác, phá hoại thiện căn của người. Gông cùm, xiềng xích trói buộc, giam cầm tuy khó thoát nhưng vẫn dễ; còn khóa nữ sắc, hễ khóa người rồi thì không thể mở ra, đó là căn bệnh nặng nhất”.

Đức Phật dạy:

Thà lấy thanh sắt nóng,

Đâm vào tròng mắt mình,

Chứ không dùng tâm nhiễm,

Trộm liếc nhìn nữ sắc.

Người nữ hay mỉm cười,

Và làm duyên làm dáng,

Thường kiêu căng, thẹn thùng,

Quay mặt cùng nhắm mắt,

Giọng nhỏ nhẹ, dỗi hờn,

Cùng dáng đi yểu điệu,

Làm mê hoặc lòng người,

Lưới dâm giăng cùng khắp,

Sa vào đều mất thân.

Khi đi, đứng, nằm, ngồi,

Liếc mắt nhìn, bỡn cợt,

Kẻ ngu trí cạn mỏng,

Bị nó làm đắm say,

Cầm dao dẹp quân địch,

Còn có thể thắng được.

Nữ tặc hại lòng người,

Không sao ngăn cản được,

Rắn hổ mang ngậm độc,

[109b] Còn có thể nắm bắt,

Nữ tình mê hoặc người,

Thật chẳng nên tiếp xúc.

Người có trí sáng suốt,

Không nên nhìn người nữ,

Nếu muốn nhìn đến họ,

Phải xem như mẹ, chị,

Nhìn kỹ rồi quán tưởng,

Thấy toàn là bất tịnh,

Lửa dâm nếu không trừ,

Ắt sẽ bị tiêu diệt.

Lỗi về sắc đã vậy, hương, vị, xúc cũng đều như thế. Từ xưa tới nay, tất cả chúng sinh trôi lăn trong sinh tử, không thể thoát ly, đều là do nữ sắc trói buộc khó thoát ra được. Kẻ mê mờ không có mắt tuệ, nên bị rơi xuống hầm sinh tử. Nay kẻ tục, người đạo, không nhận ra cái họa của dục, mà cứ rong ruổi theo nó, biết ngày nào mới quay đầu lại để thoát khỏi họa ấy! Tâm luôn đắm trước, không thể bỏ rời, giới còn không có, nói gì đến định và tuệ hay Phật tính!

Bài kệ trong kinh Niết-bàn ghi:

Làm ác không hối hận,

Như sữa kết thành lạc[39],

Tro tàn che phủ lửa,

Người ngu dẫm đạp lên.

XX.2.3. Chê trách khổ đau do dục gây tạo

Luận Trí độ ghi: “Hành giả nên chê trách năm dục: Thương thay! Chúng sinh thường bị ngũ dục quấy nhiễu, vậy mà cứ tìm cầu mãi không thôi, để rồi phải rơi xuống hầm lửa lớn, chịu nỗi khổ bị lửa nướng quay. Ngũ dục không lợi ích, như chó gặm xương; ngũ dục làm tăng sự đấu tranh, như quạ tranh thịt; ngũ dục đốt người, như cầm đuốc ngược gió; ngũ dục hại người như đạp phải rắn độc; ngũ dục không thật, như cảnh mộng; ngũ dục không bền lâu, chỉ gá tạm chốc lát. Người đời vì mê muội nên tham đắm ngũ dục, cho đến chết mà vẫn không chịu từ bỏ, đến nỗi phải chịu khổ đau cùng cực ở nhiều đời sau. Ngũ dục này chỉ làm vui sướng nhất thời, còn đau khổ thì triền miên. Như mật bôi trên dao, người tham ngọt liếm vào, đâu biết họa bị đứt lưỡi. Ngũ dục ấy là sắc, thanh, hương, vị và xúc. Năm món này là trở ngại lớn cho các thiền gia, nếu muốn tu định cần phải buông bỏ”.

1. Quở trách lỗi tham đắm sắc

Như vua Tần-bà-bà-la vì tham sắc mà phải dấn thân vào nước kẻ thù, một mình ở trong phòng dâm nữ A-phạm-bà-la. Vua Ưu-điền vì tham đắm sắc, nên đã chặt tay của năm trăm vị tiên nhân. Do nhiều nhân duyên như thế, nên quở trách lỗi của sắc.

2. Quở trách lỗi tham đắm âm thanh

Âm thanh vô thường, vừa nghe liền diệt. Người ngu si không hiểu bản chất của âm thanhvô thường, biến đổi, nên vọng sinh tâm ưa thích; [109c] âm thanh đã trôi qua rồi, mà tâm còn sinh đắm trước. Như năm trăm tiên nhân sống trong núi, nghe tiếng hát của cô gái Khẩn-đà-la tắm nơi ao trong núi Tuyết, họ liền đánh mất thiền định, tâm say đắm cuồng loạn không tự chế ngự, mất hết công đức, về sau đọa vào đường ác. Người trí quán chiếu sự sinh diệt của âm thanh, trước sau không phải một, không liên tục. Khi đã nhận biết như vậy thì không còn đắm nhiễm. Với người như thế, dù cho âm nhạc của trời cũng không thể cám dỗ được, huống gì là âm thanh trần tục. Do những nhân duyên như thế, nên quở trách lỗi tham đắm âm thanh.

Luận ghi: “Năm trăm tiên nhân đang bay, nghe tiếng ca của cô gái Khẩn-đà-la, tâm đắm nhiễm, rối loạn, liền mất hết thần túc, liền rơi xuống đất. Khi tiếng đàn Truân-luân-ma của vua Khẩn-đà-la[40] diễn tả thật tướng các pháp để ca ngợi Đức Phật thì núi Tu di và cây cối đều rúng động, các đại đệ tử như Ca-diếp v.v… ngồi trên tòa cũng đều múa máy theo, không chế ngự được tâm mình. Bồ-tát Thiện Mãn liền hỏi ngài Ca-diếp:

- Thầy là bậc đại kỳ túc, thực hành hạnh đầu-đà, tại sao hôm nay lại không chế ngự được tâm mình?

Ca-diếp đáp:

- Đối với các dục của cõi trời người, tâm ta không hề bị lay động, nhưng đây là âm thanh từ vô lượng công đức của bồ-tát phát ra, lại do trí tuệ biến hóa tạo nên, do đó ta không thể kềm chế được.

Thí như gió từ tám phương thổi đến cũng không thể lay động được núi Tu-di; nhưng đến kiếp tận, gió Tì-lam thổi đến khiến cho núi Tu-di giống như cỏ mục. Như cây đàn của A-tu-la[41] thường tự phát ra âm thanh đúng theo sở thích của họ, cho dù không có người khảy. Tiếng đàn này không làm cho tâm tán loạn, cũng không giúp nhiếp tâm. Đây là quả báo sinh ra từ phúc đức, đúng theo sở thích mà phát ra âm thanh. Cũng vậy, bồ-tát đã chứng Pháp thân thì không có tâm phân biệt, cũng không có tâm tán loạn, cũng không có tướng thuyết pháp. Đây là nhờ vô lượng phúc trí phát sinh”.

3. Quở trách lỗi tham đắm mùi hương

Người đời cho rằng tham đắm mùi hương thì ít tội, nhưng thật ra nhiễm đắm mùi hương là mở cửa kết sử[42]. Dẫu người nỗ lực giữ giới cả trăm năm cũng có thể bị nó làm hại trong phút chốc. Như có vị a-la-hán thường vào cung rồng, sau khi ăn xong, mang bát về trao cho một vị sa-di rửa. Khi rửa, trong bát còn sót vài hạt cơm, vị sa-di ngửi, nghe mùi quá thơm, ăn rất ngon, liền tìm cách chui xuống, hai tay bám lấy chân thằng sàng[43], để khi thầy vào cung rồng thì sẽ đi cùng.

Khi đến nơi, rồng hỏi:

- Vị này chưa đắc đạo, vì sao ngài dẫn theo?

Thầy trả lời:

- Tôi không biết!

Nhờ vậy, vị sa-di kia được ăn uống no nê, lại thấy rồng nữ xinh đẹp, tỏa hương thơm, liền sinh tâm đắm nhiễm, khởi nguyện xấu ác: [110a] “Ta sẽ tạo phúc đức để đoạt được cung rồng và ở tại cung điện này”.

Lúc ấy, rồng nói:

- Lần sau ngài chớ nên dẫn vị sa-di này theo!

Sau khi trở về, vị sa-di hết lòng bố thí, trì giới luôn mong cầu sớm thành rồng. Bấy giờ, sa-di đang đi kinh hành ở trong chùa, tự nhiên dưới chân phun ra nước, nên tự biết chắc mình đã được làm rồng, vội vàng đi đến bờ ao lớn, chỗ mà trước kia thầy mình vào long cung, lấy ca-sa trùm lên đầu, nhảy vào trong ao lớn chết, biến làm rồng lớn. Nhờ phúc đức tu tập, nên vị sa-di ấy giết được con rồng chúa kia, máu nhuộm đỏ ao. Trước đó, các vị thầy và chúng tăng đều quở trách, sa-di liền nói:

- Ý con đã định, khi tâm tướng đã hiện, sẽ dẫn chúng tăng đến ao xem.

Do những nhân duyên như vậy, nên quở trách lỗi đắm trước sắc.

Lại, có một vị tì-kheo đi kinh hành bên bờ ao trong khu rừng, ngửi hương thơm của hoa sen liền sinh tâm đắm trước. Thần ao hỏi:

- Tại sao ông bỏ ngồi thiền dưới khu rừng kia mà lại đến trộm mùi hương của tôi? Vì đắm trước hương, nên những kết sử đã lắng yên liền dấy khởi.

Khi ấy, có một người vào trong ao hái rất nhiều hoa sen, nhổ rễ, bẻ cành vứt bừa bãi rồi bỏ đi. Thần ao im lặng, không nói gì.

Tì-kheo nói:

- Người kia phá hết ao sen mà ông không nói gì, sao tôi chỉ kinh hành bên bờ liền bị ông mắng là kẻ ăn trộm hương?

Thần ao nói:

- Người ác thế gian thường ở trong phẩn dơ tội lỗi, bất tịnh ngập đầu thì tôi nói làm gì; còn thầy là người tốt, đang hành thiền mà đắm trước hương này là phá hủy việc thiện của mình, cho nên tôi mới chê trách! Giống như tấm lụa trắng bị vấy bẩn, thì mọi người đều nhìn thấy. Còn người ác giống như tấm vải đen, dẫu dính thêm một vết đen nữa thì người ta cũng không nhìn thấy, ai hỏi làm gì? Những nhân duyên như thế, nên quở trách lỗi đắm trước mùi hương.

4. Quở trách lỗi đắm trước mùi vị

Nên tự hiểu rằng, chỉ vì ta tham đắm vị ngon nên phải chịu nỗi khổ uống nước đồng sôi, nuốt hòn sắt nóng. Nếu không quán chiếu thức ăn mà tâm cứ mãi đắm trước thì sẽ đọa làm loài trùng bất tịnh.

Có một sa-di thường thích sữa đông, khi các đàn-việt mang sữa đông cúng cho chúng tăng, sa-di được chút phần dư, trong lòng thích thú tham đắm không rời, nên sau khi qua đời, liền sinh vào trong chiếc bình chứa sữa đông này. Thầy của sa-di đã chứng quả A-la-hán, biết được nên khi tăng chia sữa thì liền nói:

- Hãy cẩn thận! Chớ làm tổn thương vị sa-di!

Mọi người nói:

- Đây là loài trùng, sao thầy bảo là sa-di?

Thầy đáp:

- Con trùng này vốn là sa-di đệ tử của ta, chỉ vì tham đắm sữa đông dư mà sinh vào trong chiếc bình này!

Bấy giờ, từ trong phần sữa đông của thầy, con trùng ấy bò ra. Vị thầy nói:

- Ta là hòa thượng của ngươi. Ngươi nên bỏ tâm tham đắm sữa, cầu đạo xuất thế để thoát khỏi thân trùng!

Nói xong, thầy trao tam quy, trùng chết liền được sinh lên cõi trời.

[110b]Lại thái tử con vua Nhật Nguyệt Phần rất ưa thích mùi vị ngon. Người giữ vườn của vua hàng ngày mang quả ngon đến cho thái tử. Bây giờ, trên cây lớn trong vườn có một tổ chim. Chim mẹ thường bay đến núi Hương lấy những quả thơm ngon về nuôi con. Vì các chim con tranh nhau, nên có một quả rơi xuống đất. Sáng sớm hôm sau, người làm vườn thấy quả này có màu sắc kỳ lạ vô cùng, bèn mang dâng lên cho nhà vua. Vua rất quý quả này, vì nó có mùi hương quá đặc biệt, thái tử thấy được liền xem. Vì thương con, nên nhà vua ban cho thái tử. Khi thái tử thưởng thức hương vị quả này, tâm lại càng tham đắm, hàng ngày mong có quả này để ăn. Nhà vua liền gọi người giữ vườn, hỏi nguyên do có được trái cây này.

Người giữ vườn tâu:

- Quả này không có ai trồng, thần nhặt dưới đất, không biết từ đâu đến?

Thái tử khóc lóc không ăn uống gì, nhà vua bèn ra lệnh người giữ vườn:

- Ngươi hãy mau tìm cho được trái ấy mang về đây!

Người giữ vườn liền đến chỗ mình nhặt được trái cây hôm nọ, thấy trên cây có tổ chim, mới biết trái cây này do chim mang về. Ông ta ẩn mình trên cây, rình chờ lấy quả. Khi chim mẹ bay về, ông ta cướp lấy quả dâng lên cho nhà vua. Hàng ngày như vậy, chim mẹ tức giận, bèn đến núi Hương hái một quả độc, nhưng mùi cũng giống như quả kia. Người giữ vườn cũng cướp lấy, rồi dâng lên nhà vua. Nhà vua và thái tử ăn, chưa được bao lâu thân thể thối rửa mà chết.

Do các nhân duyên như vậy, cho nên quở trách lỗi tham đắm mùi vị.

5. Quở trách lỗi tham đắm sự xúc chạm

Xúc là nguyên nhân của kết sử, là căn bản trói buộc tâm. Vì sao? Vì bốn dục kia mỗi mỗi chỉ duyên với căn tương ứng, còn xúc thì toàn thân. Vả lại, nó rất khó xa lìa, thường tạo trọng tội.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói nhân duyên Bản Sinh[44] cho các tì-kheo:

- Vào thời quá khứ xa xưa, ở nước Ba-la-nại có một tiên nhân sống trong núi. Vào một đêm tháng tám, vị tiên nhân đi tiểu trong bồn tắm, chợt thấy những con nai giao hợp, tâm dâm sinh khởi nên xuất tinh rơi vào bồn. Khi nai cái đến uống nước, gặp phải, liền mang thai. Đủ tháng, nó đến bên am của tiên nhân, sinh ra một sinh vật, thân hình giống người, nhưng trên đầu có một chiếc sừng và chân thì giống nai. Nai mẹ thấy con của mình giống người, bèn bỏ đó cho tiên nhân rồi đi. Tiên nhân bước ra, thấy sinh vật nhỏ bé này, tự nhớ nghĩ lại duyên xưa, biết là con của mình. Ông ta mang về nuôi dưỡng, khi khôn lớn, dạy nó học tập, thông thạo mười tám loại đại kinh, lại học tọa thiềnthực hành tứ vô lượng tâm[45], chứng ngũ thần thông[46]. Một hôm, nó lên núi, gặp lúc trời mưa lớn, đường đi lầy lội, trơn trợt, chân đi không vững, nên té ngã làm bể chiếc bình đựng nước, chân lại bị thương. Nó tức giận quá, về nhà lấy bình chứa nước [110c] rồi chú nguyện, khiến cho trời không mưa. Vì phúc đức của tiên nhân, nên các loài rồng, quỷ thần đều không làm mưa. Do không mưa, nên ngũ cốc, ngũ quả đều không thể sinh trưởng, nhân dân vô cùng khốn khổ, dường như không còn đường sống. Vua Ba-la-nại ưu sầu, nhóm họp các đại thần để bàn luận. Có một vị quan thông thái thưa:

- Nghe đồn có vị tiên có sừng sống trong núi Tiên Nhân, một hôm vào núi, vì chân không vững, khiến chân bị thương, ông ta tức giận bèn chú nguyện suốt mười hai năm không mưa.

Nhà vua liền nghĩ: “Nếu suốt mười hai năm mà không mưa, đất nước ta không còn nhân dân, ắt sẽ bị diệt vong!”. Nhà vua liền chiêu mộ, ai có khả năng khiến cho tiên nhân mất thần thông, để ông ấy làm một người dân bình thường, ta sẽ chia nửa quốc gia. Trong nước, có một dâm nữ tên là Phiến-đà, xinh đẹp và rất giàu có, đến nhận lời chiêu mộ của nhà vua. Cô ta hỏi mọi người:

- Đó là người phải không?

Đáp: Phải! Do một tiên nhân sinh ra!

Dâm nữ nói:

- Nếu là người thì ta có thể phá được.

Nói xong, cô ta lấy mâm vàng đựng đầy báu vật, đồng thời thưa với vua:

- Tiểu nữ sẽ cưỡi trên cổ vị tiên nhân đó về đây!

Ngay lúc đó, dâm nữ xin nhà vua ban cho năm trăm cỗ xe chở năm trăm mĩ nữ, năm trăm xe nai chở các loại rượu ngon có nồng độ cao, màu sắc giống như nước và các loại bánh hoan hỷ rồi dùng các loại dược thảo hòa với nước vẽ lên bánh đủ màu sắc, giống như các loại trái cây lẫn lộn, rồi mặc áo vỏ cây để giống với tiên nhân, vào trong rừng, cất thảo am ở bên cạnh tiên nhân. Khi tiên nhân ra, các tiên nữ đón tiếp, mang những đóa hoa đẹp với mùi hương thượng diệu cúng dường. Họ dùng những lời hay, tỏ vẻ cung kính, thăm hỏi tiên nhân rồi đưa vào phòng, mời ngồi trên chiếc giường nệm, dâng rượu ngon thay nước trong bình, mời bánh hoan hỷ thay quả, tiên nhân rất vui. Sau khi ăn uống no say, tiên nhân nói với những dâm nữ:

- Từ khi sinh ra đến nay, ta chưa từng được thưởng thức những quả ngon và nước bổ như thế này!

Những dâm nữ nói:

- Tôi hết lòng làm điều thiện, nên trời ban cho tôi như sở nguyện được quả ngon, nước bổ này!

Tiên nhân hỏi:

- Vì sao các nàng có được nhan sắc xinh đẹp như thế?

Người nữ đáp:

- Tôi nhờ ăn quả ngon, uống nước bổ này nên có được nhan sắc như vậy.

Người nữ thưa với tiên nhân:

- Ngài ở lại đây luôn chứ?

Đáp:

- Vâng! Tôi cũng có thể ở lại!

Người nữ hỏi:

- Ngài có thể cùng tắm với tôi được không?

Đáp:

- Cũng được!

Bởi tay của dâm nữ mềm mại, khi chạm vào da thịt, tâm tiên nhân rung động, dục tâm liền sinh khởi, nên đưa đến việc hành dâm. Tiên nhân liền mất hết thần thông, trời liền mưa suốt bảy ngày đêm, nhân dân ăn mừng thỏa thích. Trải qua bảy ngày, rượu ngon, thức bổ đã hết, chỉ còn lại trái cây và nước suối, [111a] hương vị chẳng ngon gì. Tiên nhân đòi thức ăn uống như trước.

Dâm nữ nói:

- Đã hết rồi! Chúng ta sẽ cùng đi tìm, cách đây không xa sẽ có!

Tiên nhân đồng ý.

Thế là họ cùng nhau ra đi, cách thành không bao xa, người nữ nằm giữa đường nói:

- Tôi thật không thể đi được nữa!

Tiên nhân nói:

- Nếu không đi được, tôi sẽ cõng cô!

Trước đó, người nữ đã sai người báo tin cho vua biết, để vua đến chứng kiến tài năng của mình. Do đó, vua ra lệnh nghiêm chỉnh xa giá đến xem.

Vua hỏi:

- Nguyên nhân nào mà cô làm được việc này?

Người nữ tâu nhà vua:

- Tôi dùng tài khéo léo của mình. Nay ông ta đã như vậy, không thể có lại thần thông như trước nữa. Hãy cho ông ta ở trong thành, cung kính cúng dường đầy đủ, tùy theo ý muốn, đồng thời phong cho ông ta chức quan lớn.

Sống ở trong thành được ít ngày, thân thể ông ta trở nên gầy ốm, nhớ lại niềm vui thiền định, nhàm chán dục lạc thế gian. Thấy vậy, vua liền hỏi:

- Tại sao ngài không vui, khiến cho thân thể trở nên gầy ốm như thế?

Tiên nhân đáp:

- Tuy tôi có đầy đủ năm dục, nhưng cứ nhớ mãi chốn núi rừng yên tĩnh, nơi các tiên nhân dạo chơi, không thể nào quên được!

Vua nghĩ: “Nếu cưỡng ép ở lại thì làm cho ông ta khổ đau; khổ đau cùng tột thì sẽ chết. Họa hoạn mà ta muốn trừ bỏ cũng đã trừ, cưỡng ép ông ta làm gì nữa?”. Nghĩ như vậy, vua liền cho người đưa ông ta trở về núi. Khi đến núi, tiên nhân tinh tấn tu hành, không bao lâu lại chứng được ngũ thông.

Đức Phật bảo các tì-kheo:

- Vị tiên nhân một sừng xưa kia, nay chính là Ta. Dâm nữ kia nay chính là Da-du-đà-la. Lúc đó, cô ta dùng bánh hoan hỷ mê hoặc Ta, do Ta chưa đoạn trừ kết hoặc nên bị mê hoặc. Nay cô ta vẫn còn dùng bánh hoan hỷ mê hoặc Ta, nhưng không được.

Qua việc này nên biết sự xúc chạm mịn màng có thể lay động cả tiên nhân, huống chi người phàm?

Do các nhân duyên như thế, nên chê trách lỗi đắm trước xúc. Như vậy, có thể chê trách năm dục, đoạn trừ năm loại ngăn che.

XX.3. Năm món ngăn che

Hỏi: Năm món ngăn che là gì?

Đáp: Tham dục, sân khuể, thùy miên, trạo hối và nghi.

XX.3.1. Tham dục

Ví như người đang thực tập thiền định, bỗng tâm sinh dục giác[47], vọng niệm tương tục, tham cầu mãi không thôi, đến nỗi sinh bệnh. Như luận Đại trí độ ghi: “Thuật-bà-già vì nhớ vương nữ, dục tâm nội phát thiêu đốt thân thể, cháy lan đến cả miếu thờ trời. Huống chi người khởi ngọn lửa dục độc mà không thiêu đốt các pháp thiện sao? Tâm đã nhiễm dục thì làm sao gần đạo được? Cho nên, kệ ghi:

Người hành đạo tàm quí,

Khất thực giáo hóa người,

[111b] Cớ sao theo dục trần,

Chìm đắm mãi trong đó.

Đã xa lìa năm dục,

Dứt bỏ không đoái hoài,

Làm sao lại muốn được,

Như ngu ăn đàm dãi.

Khi cầu dục thì khổ,

Lúc được, sợ hãi nhiều,

Mất đi càng phiền muộn,

Tất cả đều không vui.

Tai họa như vậy đó,

Làm sao để xả bỏ,

Tạo phúc vui thiền định,

Ắt không bị người khinh.

XX.3.2. Sân khuể

Sân hận là cội gốc đánh mất các pháp thiện, là nguyên nhân đọa vào các đường ác, là oan gia của pháp lạc, là giặc lớn của thiện tâm, là kho tàng ác khẩu, là dao búa họa hoạn. Nếu người đang tu đạosuy nghĩ: “Người này não hại ta và người thân của ta, khen ngợi kẻ oán thù của ta, xét kĩ quá khứ, vị lai cũng đều như vậy”. Đó là chín chỗ phiền não sinh ra sân hận; niệm sân hận che lấp tâm trí, nên gọi là Cái. Hãy mau dứt bỏ không nên để nó tăng trưởng.

Như luận Đại trí độ ghi: “Thích-đề-bà-na dùng kệ hỏi Đức Phật:

Trừ pháp nào, an ổn?

Diệt pháp nào, hết ưu?

Pháp nào gốc của độc,

Nuốt mất các pháp thiện?

Đức Phật dùng kệ đáp:

Lìa sân được an ổn,

Diệt sân hết lo buồn,

Sân là gốc của độc,

Sân diệt mọi pháp thiện!

Khi biết được như vậy, nên tu tập tâm từ bi, dùng nhẫn nhục trừ bỏ sân hận để tâm thanh tịnh; quán âm thanh là trống rỗng, giả tạm, không nên khởi sân giận. Cho nên, luận Đại trí độ ghi: “Bồ-tát biết các pháp không sinh, không diệt, thể tính vốn không”. Nếu người nào tức giận mắng chửi, đánh đập, giết hại ta, ta đều xem như huyễn, như hóa; quán âm thanh vốn không, chỉ là tiếng gió, từ duyên mà có thì việc gì phải tức giận. Cho nên, luận ghi: “Như khi sắp nói, gió Ưu-đà-na[48] từ miệng chuyển xuống rốn, chạm rốn thì tạo thành âm hưởng, âm hưởng này trở ra tiếp xúc với bảy chỗ (cổ, lợi, răng, môi, lưỡi, cổ họng và ngực) phát ra tiếng, đó gọi là nói. Như kệ ghi:

Ngọn gió Ưu-đà-na,

Chạm rốn thì chuyển lên,

Trở ra qua bảy chỗ,

Cổ, lợi, răng, môi, lưỡi,

Yết hầu đến lồng ngực,

Mới phát ra âm thanh,

[111c] Người ngu không hiểu được,

Mê chấp sinh sân hận.

Lại nữa, kinh Ưu-bà-tắc ghi: “Bậc trí nếu bị chửi mắng, liền nghĩ lời mắng chửi này không phát ra cùng một lúc. Lời trước phát ra, thì lời sau chưa có; đến khi lời sau phát ra thì lời trước đã qua rồi. Đã không cùng một lúc như thế, tại sao cho là mắng chửi, chỉ là tiếng gió thoảng qua, cớ sao ta lại nổi sân?”

Cho nên, luận Đại trí độ ghi: “Bồ-tát quán chúng sinh, dẫu trăm nghìn kiếp bị mắng chửi cũng không khởi tâm sân hận; nếu trăm nghìn kiếp được khen ngợi cũng không hề vui mừng. Bồ-tát biết rõ âm thanh sinh diệt như mộng huyễn, như tiếng vang”.

XX.3.3. Thụy miên

Nội tâm mê muội gọi là miên; năm thức ám độn, thân thể lừ đừ, nằm ngủ say sưa gọi là thụy. Thụy miên này có năng lực phá niềm vui chân thật của đời này đời sau, cho nên nó là pháp ác, bất thiện nhất. Vì sao? Vì các món che đậy khác, chúng sinh có thể nhận biết mà đoạn trừ, còn lúc thụy miên thì như người chết, tâm không thể nhận biết được; vì không nhận biết được, nên khó đoạn trừ.

Như luận Đại trí độ ghi: “Bồ-tát nói kệ khuyên răn đệ tử về thụy miên:

Các ông chớ ôm thây chết ngủ,

Những thứ bất tịnh tạm gọi người,

Như thân bệnh nặng, bị tên bắn,

Các khổ tích chứa, đâu thể ngủ!

Như người bị trói sắp hành hình,

Tai họa phủ xuống, đâu thể ngủ!

Phiền não chưa diệt, hại chưa trừ.

Như cùng rắn độc ngủ chung nhà,

Giống như giữa trận nghìn đao bén,

Lúc ấy làm sao có thể yên,

Ngủ thì tối tăm, không nhìn thấy,

Hàng ngày lừa dối đoạt trí người,

Vì ngủ che tâm không thấy được,

Lỗi lớn như thế, ngủ được sao?”

XX.3.4. Trạo hối

Có ba phần: trạo hối của miệng là ưa thích ngâm vịnh, tranh cãi thị phi, bàn luận vô ích, nói chuyện thế tục; trạo hối của thân là thích cưỡi ngựa, đánh xe dong ruổi đó đây, đấu vật, đánh đấm; trạo hối của tâm là tâm tình phóng túng, ý duyên theo cảnh, suy nghĩ tìm tòi kĩ thuật, văn nghệ thế gian. Nói chung trạo là những ác giác quán[49] phá mất tâm xuất gia.

Cho nên luận Đại trí độbài kệ:

Ông đã cạo đầu đắp ca-sa,

Tay ôm bình bát khắp mọi nhà,

Vì sao đắm trước các trạo hối,

Buông lung tâm ý đọa pháp tà.

[112a] Đã không có lợi ích về chính pháp, mà còn đánh mất niềm vui ở thế gian. Khi nhận biết được lỗi ấy thì phải trừ bỏ ngay. Nếu chỉ có trạo mà không có hối thì không thành món che đậy. Vì khi trạo, phiền não vẫn còn ở trong duyên, nhưng đến lúc nhập định thì mới sinh tâm hối hận hành động đã làm. Do đó, buồn bực che tâm, nên gọi là che lấp. Ở đây có hai trường hợp là do trạo và sau đó sinh hối, như trước đã trình bày; hai là người phạm trọng tội, lòng luôn sợ hãi, như mũi tên độc cắm sâu vào tim không thể nhổ được.

Như trong luận Trí độbài kệ:

Không nên làm mà làm,

Nên làm lại không làm,

Lửa hối hận thiêu đốt,

Đời sau đọa đường ác.

Người có tội biết hối,

Hối rồi chớ buồn lo,

Tâm an lạc như thế,

Không nên luôn nghĩ nhớ,

Có hai loại hối hận,

Việc nên làm không làm,

Không nên làm lại làm,

Đó chính là người ngu,

Do tâm không hối hận,

Việc không nên mà làm,

Các điều ác đã làm,

Không thể nói không làm.

XX.3.5. Nghi

Vì nghi che lấp tâm tính, nên không thể định tâm trước các pháp; do không thể định tâm, nên ở trong Phật pháp không thu hoạch được kết quả gì. Như người đi vào trong núi báu, nếu không có tay thì không thể lấy được. Nói chung, nghi rất nhiều, nhưng chưa hẳn tất cả làm chướng ngại định. Ở đây chỉ nêu ba mối nghi làm chướng ngại định: nghi mình; nghi thầy và nghi pháp.

a. Nghi mình: nghĩ ta ngu tối, tội lỗi sâu dày, chẳng phải là người ư? Khi đã nghi ngờ chính mình thì định tuệ không phát khởi. Nếu muốn học pháp, không nên xem thường mình, vì thiện căn đời trước thật khó lường.

b. Nghi thầy: vị kia oai nghi tướng mạo đã như vậy, bản thân còn chưa chứng đạo, làm sao có thể chỉ dạy ta? Khi khởi tâm nghi kiêu mạn như vậy, thì chướng ngại định. Muốn trừ bỏ tâm nghi, thì phải xem như vàng ở trong túi da hôi, vì tham vàng nên không bỏ túi da. Cũng vậy, tuy thầy mình bất tịnh, nhưng hành giả nên khởi quán tưởng như Phật.

c. Nghi pháp: Người đời phần nhiều chấp vào bổn tâm, không có lòng kính tin, thực hành đối với pháp đã thụ. Nếu do dự thì pháp sẽ không thâm nhập vào tâm. Vì sao? Vì ngăn che tâm.

Như luận Trí độ ghi:

Như người giữa ngã rẽ

Chẳng biết đi đường nào,

[112b] Trong thật tướng các pháp,

Nghi hoặc cũng như vậy.

Vì nghi, không siêng cầu,

Thật tướng của các pháp,

Nghi phát sinh từ si,

Là ác trong pháp ác.

Các pháp thiện, bất thiện,

Sinh tử và niết-bàn,

Chắc chắn là pháp hữu,

Nơi pháp chớ sinh nghi,

Người ôm lòng nghi hoặc,

Thần chết, ngục tốt trói,

Như sư tử bắt nai,

Không thể thoát khỏi chết,

Ở đời tuy có nghi,

Nên vui theo pháp thiện,

Như người giữa ngã rẽ,

Chọn đường tốt để đi.

Hỏi: Pháp bất thiện nhiều vô số, vì sao chỉ trừ bỏ năm pháp thôi?

Đáp: Năm pháp này, tên gọi tuy hạn hẹp, nhưng nghĩa lí bao trùm ba độc, cũng thâu nhiếp cả tám vạn bốn nghìn trần lao. Phiền não cái tham dục chính là tham độc, sân khuể chính là sân độc, thùy miên và nghi chính là si độc, còn trạo hối chính là đẳng phần, gồm đủ cả bốn món phiền não. Trong một món ngăn che có hai vạn một nghìn, bốn món thì có tám vạn bốn nghìn trần lao. Cho nên, nếu trừ năm phiền não ngăn che này, thì bỏ được tất cả pháp bất thiện. Như người trả nợ xong, người bệnh được lành, người đói đến được nước giàu có; như ở chỗ giặc ác nguy hiểm được cứu đến nơi an ổn, không hoạn nạn. Cũng vậy, hành giả trừ năm phiền não ngăn che thì tâm được thanh tịnh. Giống như mặt trời, mặt trăng bị năm thứ che lấp: khói, mây, bụi, sương và bàn tay của a-tu-la thì không thể chiếu sáng. Tâm cũng như vậy, như ví dụ có thể biết được.

Bài tụng:

Năm dục mờ thần thức,

Năm cái che phúc đức,

Sáu căn nguồn gốc khổ,

Sáu giặc loạn tâm thức,

Sóng dục theo tình nỗi,

Lưới ái theo tâm dệt,

Ba độc ngăn nhân không[50],

Bốn dòng[51] trôi không dừng,

Vàng đúc tuy đổi dạng,

Tính toán lại không cùng,

Chim câu còn chẳng biết,

Vượn chuyền đâu thể dừng,

Chưa dứt sạch dục cái,

Làm sao vượt cao xa,

Cùng đến nơi thành báu,

Được thấy đấng Năng Nhân.

XXI. TỨ SINH

[112c] Gồm sáu phần: Lời dẫn, Hội danh, Tương nhiếp, Ngũ sinh, Trung ấm, Thụ thai.

XXI.1. Lời dẫn

Thực hành điều thiện thì cảm báo vui, gần thì sinh lên cõi trời người, xa thì thành Phật đạo. Còn làm ác sẽ chịu quả khổ, gần thì rơi vào ba đường ác, xa thì trái với quả thánh. Người ngu không tin, nhưng kẻ trí nhận biết. Cho nên mới có bốn loài tướng trạng chẳng đồng, sáu nẻo thân hình sai khác, sáng tối đôi đường riêng lẻ, thăng trầm muôn lối khác nhau. Lý nghiệp nhân duyên đã quá rõ ràng, báo ứng nhân quả muôn đời chẳng lệch.

XXI.2. Tổng hợp các tên gọi về bốn hình thái sinh (hội danh)

Như kinh Bát-nhã ghi: “Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hoá sinh”.

Kinh Giải thập nhị nhân duyên trong A-hàm ghi: “Có bốn hình thái sinh: sinh từ bụng là loài ngườisúc sinh (thai sinh); sinh do nóng lạnh hòa hợp là các loài trùng, bướm, bò chét, rận (thấp sinh); sinh do biến hóa là trời và địa ngục (hóa sinh); sinh từ trứng là chim, cá v.v… (noãn sinh).”

Kinh Chính pháp niệm ghi: “Súc sinh nhiều vô số, gom thành ba loại: loài sống dưới nước như cá v.v…, loài đi trên mặt đất như voi v.v…, loài bay trên hư không như chim v.v… Hoặc bằng thiên nhãn, thấy các loài súc sinh có bốn hình thái sinh: thai sinh, là những loài như voi, ngựa, trâu, dê; noãn sinh, là các loài chim như rắn rít, ngỗng, vịt, gà và chim trĩ; thấp sinh, là những loài như bò chét, kiến; hoá sinh, là các loài như rồng có thân hình dài”.

Cho nên, kinh ghi: “Sinh là các căn mới được sinh khởi, chết là các căn cũ bị hoại diệt”.

Luận Thiện kiến ghi: “Một, sắc[52] sinh; hai, vô sắc[53] sinh. Sắc sinh thì bị hoại diệt, Vô sắc sinh không hoại diệt. Vô sắc sinh nương vào sắc mà sinh, sắc và tâm nương nhau, tạo thành một giả thể, nên gọi là sinh. Khi thân trước không cảm biết thân sau, thân sau không liên hệ với thân trước, nên gọi là chết”.

Kinh Niết-bàn ghi: “Phật tính của chúng sinh ở trong thân ngũ ấm, nếu giết thân ngũ ấm thì gọi là sát sinh; đã sát sinh thì bị đọa đường ác”.

Căn cứ vào sinh tử này, mà có tứ sinh. Từ trứng sinh, gọi là noãn sinh; từ chỗ dung chứa sinh, gọi là thai sinh; nhờ vào ẩm thấp để sinh, gọi là thấp sinh;[113a] bỗng nhiên xuất hiện, gọi là hóa sinh. Bốn loài này bao gồm tất cả chúng sinh.

XXI.3. Phối thuộc giữa bốn loàisáu đường (tương nhiếp)

Luận Bà-sa ghi: “Trong cõi Dục gồm cả sáu đường, cõi Sắc và Vô sắc cũng là một phần trong sáu đường. Sở dĩ có sự phân chia như vậy, vì cõi Dục là nơi hỗn loạn, chúng sinh tạp ác khởi nghiệp không thuần nhất, hoặc thiện hay ác. Chính vì bất đồng, nên theo nghiệp thụ quả báo, mới có nhiều sai biệt. Tuy nhiên, ở cõi Sắc và Vô Sắc là nơi tâm dễ an định, chúng sinh thanh tịnh, khởi nghiệp cũng thuần thiện, cho nên không có nhiều đường khác nhau”.

Hỏi: Sự phối thuộc giữa bốn loàisáu đường như thế nào?

Đáp: Luận Tạp a-tỳ-đàm tâm ghi: “Trời và địa ngục chỉ có hóa sinh, loài ngạ quỷthai sinhhóa sinh. Loài ngườisúc sinh đều có đủ bốn hình thái sinh”.

Cho nên, luận ấy hỏi: “Sinh thâu nhiếp cõi, hay cõi thâu nhiếp sinh?”. Rồi chính luận này đáp:

Sinh thâu nhiếp các cõi,

Chẳng phải cõi nhiếp sinh,

Nếu là thân trung ấm,

Chẳng thuộc về cõi nào.

Cho nên biết bốn loài thì rộng, sáu cõi thì hạn hẹp. Vì loài hóa sinh rất nhiều, nên tóm thâu cả hai cõi và một phần của cõi thứ ba (cõi Dục), ở địa ngục toàn là hóa sinh.

Hỏi: Chúng sinh ở sáu tầng trời cõi Dục hành dâm giống như người, tại sao không có thai sinh?

Đáp: Thụ dục tuy giống nhau, nhưng hành vi khác nhau, cho nên kinh Lâu thán chính pháp niệm ghi: “Hai cõi Tứ thiên và Đao Lợi thuộc cõi trời, khi hành dâm, thân thể của nam nữ giao hợp giống với cõi người, nhưng không xuất tinh. Những cõi trời trên thì hoàn toàn khác, trong đó, cõi trời Diệm-ma khi hành dâm chỉ khởi ý ôm nhau, hoặc nắm tay là thành. Cõi trời Đâu-suất thì ý vui vẻ, nói cười với nhau là thành. Cõi trời Hóa Lạc chỉ nhìn nhau là xong, không cần nói cười. Cõi trời Tha Hóa chỉ nghe tiếng nói, hoặc ngửi mùi hương là thành dâm. Cho nên hình thái sinh ở cõi trời hoàn toàn khác với cõi người và được hóa sinh từ đầu gối mẹ”.

Việc hóa sinhngạ quỷ có thể tự biết được. Còn thai sinh thì hơi khó thấy, như phần Quán bất tịnh có ghi: “Thuở xưa, trong thành Vương Xá có một người thiếu nữ bị dính tinh của loài quỷ, nên sinh ra năm trăm quỷ con”. Lại luận Câu-xá ghi: “Có một con quỷ nói với tôn giả Mục-liên: ‘Ban ngày, tôi sinh năm đứa con, ban đêm sinh năm đứa con, sinh được đứa con nào liền ăn hết mà vẫn không no’. Đây là quỷ thai sinh”.

[113b] Loài a-tu-la cũng có hóa sinhthai sinh, vì có vợ chồng giao phối nên có thai sinh. A-tu-la vào kiếp sơ, từ trời sinh ra, tức là hóa sinh. Lại nữa, theo kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Nguồn gốc của nữ a-tu-la vốn từ trứng bùn dưới biển lớn, nhờ ẩm ướt sinh ra, đây chính là noãn và thấp sinh. Cho nên loài a-tu-la gồm đủ bốn hình thái sinh”.

Người có đủ bốn hình thái sinh: thai sinh hiện thấy có thể biết; noãn sinh như kinh Niết-bàn ghi: “Như Tỳ-xá-khư mẫu sinh ra một cái trứng thịt, trong quả trứng ấy lại sinh ra ba mươi hai trứng”.

Như luận Tỳ-bà-sa ghi:

Hỏi: Vì sao biết trong loài người có noãn sinh?

Đáp: Đức Phật dạy: “Cõi Diêm-phù-đề-lợi có nhiều thương nhân vào biển tìm châu báu, bắt được hai con chim hạc đem về, tùy theo ý thích mà dạy dỗ. Sau đó, một con chết, hằng ngày thương nhân cùng vui đùa với con còn lại, đêm đến nằm ngủ chung một nhà và cùng giao hợp với nó, sinh ra hai quả trứng. Đến ngày, trứng nở ra hai đồng tử, một vị tên là Thi-bà-la, một vị tên là Ưu-bát-thi-bà, về sau lớn lên cho xuất gia học đạo, chứng quả A-la-hán”.

Hỏi: Vì sao biết trong loài người có hình thái thấp sinh?

Đáp: Như kinh dạy: “Có vua Đỉnh Sinh, tôn giả Già-la, tôn giả Ưu-ba-già-la, Lê nữ và Nại nữ” là những người thuộc thấp sinh!

Hỏi: Làm sao biết được trong loài người có hóa sinh?

Đáp: Như loài người trong kiếp Sơ và người đã được thánh pháp. Vì đã chứng thánh pháp thì không còn noãn sinhthấp sinh.

Hỏi: Vì sao không còn noãn sinh và thấp sinh?

Đáp: Vì noãn sinhthấp sinh là thuộc về loài súc sinh.

Súc sinh có đủ bốn hình thái sinh. Trong đó thai sinh, noãn sinhthấp sinh có thể biết. Còn hoá sinh, theo kinh Lâu thán ghi: “Như bốn loài kim sí điểu (noãn, thai, thấp, hóa) ăn thịt bốn loài rồng (noãn, thai, thấp, hóa). Trong đó, kim sí điểu hóa sinh ăn bốn loài rồng, kim sí điểu thai sinh ăn ba loài rồng (trừ loài rồng hóa sinh), kim sí điểu noãn sinh ăn hai loài (trừ hóa và thai), kim sí điểu thấp sinh ăn một loài rồng thấp sinh”.

Lại nữa, kinh Khởi thế ghi: “Ở phía bắc biển lớn có các rồng chúa, các kim sí điểu chúa, và có một cây lớn tên là Cư-trá-xa-ma-ly. Chu vi của gốc cây ấy rộng bảy do-tuần, rễ ăn sâu vào đất hai do-tuần, thân cao một trăm do-tuần, cành lá che phủ năm mươi do-tuần. Phía đông của cây ấy có rồng noãn sinhkim sí điểu noãn sinh, phía nam cây ấy có rồng thai sinhkim sí điểu thai sinh, phía tây cây ấy có rồng thấp sinhkim sí điểu thấp sinh, phía bắc cây ấy có rồng hóa sinh, kim sí điểu hóa sinh. Bốn phương đều có cung điện, diện tích sáu trăm do-tuần, có bảy lớp tường và bảy báu trang nghiêm, [113c] mùi hương vi diệu xông khắp nơi, có những loài chim ca hót. Lại nữa, kim sí điểu chúa noãn sinh ở nơi đó, khi muốn bắt rồng noãn sinh liền bay đến đậu trên cành phía đông của cây Cư-trá-xà-ma-ly, nhìn biển lớn, rồi đáp xuống dùng đôi cánh quạt mạnh, khiến nước rẽ ra hai trăm do-tuần, bắt rồng noãn sinh, rồi mang ra khỏi biển ăn thịt. Kim sí điểu chúa noãn sinh chỉ bắt được rồng noãn sinh, chứ không thể bắt được rồng thai sinh, thấp sinhhóa sinh. Nếu kim sí điểu thai sinh, muốn bắt rồng noãn sinh thì trở lại vùng biển phía đông cây ấy để bắt; muốn bắt rồng thai sinh thì đến vùng biển phía nam cây ấy rẽ nước bốn trăm do-tuần để bắt. Kim sí điểu thai sinh chỉ bắt được loài rồng thai sinhnoãn sinh, không thể bắt được rồng thấp sinhhóa sinh.

Lại nữa, kim sí điểu thấp sinh, muốn bắt rồng noãn sinh thì trở lại vùng biển phía đông cây ấy bắt ăn; muốn bắt rồng thai sinh thì đến vùng biển phía nam cây ấy rẽ nước bốn trăm do-tuần để bắt ăn; muốn bắt rồng thấp sinh thì đến vùng biển phía tây của cây ấy rẽ nước tám trăm do-tuần để bắt; kim sí điểu thấp sinh chỉ bắt được rồng thai sinh, noãn sinhthấp sinh, không thể bắt được rồng hóa sinh.

Lại nữa, kim sí điểu chúa hóa sinh muốn bắt rồng noãn sinh thì đến vùng biển phía đông cây ấy để bắt; muốn bắt rồng thai sinh thì đến vùng biển phía nam cây ấy để bắt; muốn bắt rồng thấp sinh thì đền vùng biển phía tây của cây ấy để bắt; muốn bắt rồng hóa sinh thì đến vùng biển phía bắc của cây ấy rẽ nước một nghìn sáu trăm do-tuần để bắt. Các loài rồng đều là thức ăn của kim sí điểu chúa”.

Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Đức Phật dạy: trong cõi Diêm-phù-đề và tứ thiên hạ có loài kim sí điểu tên Ca-lâu-la vương, nó rất tự tại trong các loài chim. Nghiệp báo của loài chim này là thích ăn thịt các loài rồng. Ngày thứ nhất ở cõi Diêm-phù-đề, nó ăn một con rồng chúa và năm trăm con rồng nhỏ; ngày thứ hai ở cõi Phất-bà-đề, ngày thứ ba ở cõi Cù-da-ni, ngày thứ tư ở cõi Uất-đan-việt đều ăn một con rồng chúa và năm trăm rồng nhỏ. Cứ lần lượt xoay vần như thế, trải qua tám nghìn năm, chim này chết rồi lại xuất hiện. Bấy giờ, các loài rồng nhả độc để nó không thể ăn được. Loài chim kia bị đói khát bức bách, hoảng hốt đi tìm thức ăn, [114a] bay lượn khắp các núi mà cũng không được. Nó bay đến núi Kim Cương rồi dừng lại, từ đây nó bay thẳng đến Thủy luân[54]; từ Thủy luân bay đến Phong luân, tại đây, nó bị gió thổi bay trở về lại núi Kim Cương. Qua lại bảy lần như thế thì chết. Sau khi chết, do nọc độc của nó mà mười núi báu đồng thời phát cháy. Bấy giờ, rồng chúa Nan-đà sợ cháy núi này bèn phun mưa lớn như trút nước, thịt chim tan hết chỉ còn quả tim. Tim của nó cũng bay lên rơi xuống bảy lần như trước. Sau đó, quả tim trở lại ở trên đỉnh núi Kim Cương. Rồng chúa Nan-đà lấy quả tim của chim này làm hạt minh châu. Về sau, Chuyển luân vương có được ngọc này, cho đó là ngọc như ý”.

Lại nữa, kinh Lâu thán ghi: “Các rồng chúa trong bốn phương thiên hạ bị ba thứ nóng thiêu đốt, chỉ riêng rồng chúa A-nậu-đạt tránh khỏi. Bởi ba lý do là các rồng chúa khác bị mưa cát nóng tắp vào thân, thiêu đốt rất đau đớn; các rồng chúa khác khởi tâm dâm liền có ngọn gió nóng thổi đến thiêu đốt thân, nên nhan sắc bị hủy hoại, làm thân rắn, nên sợ hãi không vui; các rồng chúa khác bị kim sí điểu ăn, nên rất sợ hãi. Do đó, các rồng chúa khác trong thiên hạ đều bị độc nóng thiêu đốt, chỉ có rồng chúa A-nậu-đạt không bị thiêu đốt”.

Kinh Thiện kiến ghi: “Đức Phật dạy: loài rồng có năm trường hợp không lìa thân rồng. Một, khi hành dâm, nếu rồng với rồng hành dâm thì được thân rồng, còn rồng hành dâm với người thì không hiện thân rồng; hai, lúc sinh ra; ba, khi thay da; bốn, khi ngủ; năm, khi chết”.

Hỏi: Bốn loại thức ăn và các cõi tương quan như thế nào?

Đáp: Luận Tì-đàm ghi: “Trong sáu đường đều có bốn loại thức ăn, nhưng tính chất khác nhau. Như ở địa ngụcđoàn thực là hòn sắt nóng và nước đồng sôi, tuy khổ đau tăng mà vẫn còn đói khát; như trong địa ngục Khinh Hệ có hai ngọn gió nóng và lạnh cùng thổi vào thân, đó là đoàn thực[55]. Riêng hai cõi Sắc và Vô sắc không có đoàn thực, vì thân ở đó rất nhẹ nhàng”.

Bài kệ trong luận ghi:

Dục có bốn thức ăn,

Xúc, đoàn, thức, thiền duyệt,

Bốn loài trong sáu nẻo,

Cũng đầy đủ như thế,

Cõi Sắc và Vô sắc,

Chỉ có ba thức ăn,

Vốn không có đoàn thực.

Hỏi: Chưa biết chúng sinh trong sáu nẻo dùng thức ăn gì để tăng trưởng?

Đáp: Trong luận Tì-đàm ghi: “Chúng sinh trong sáu nẻo thì loài quỷ, loài noãn sinhchư thiên ba tầng trời dưới ở cõi Vô sắc đều chỉ nhờ vào tư thực[56] mà được tăng trưởng. [114b] Vì sao? Vì chúng sinh trong loài ngạ quỷ nhiều ý hành[57]. Chúng sinh thuộc noãn sinh khi còn ở trong trứng nhờ nhớ nghĩ đến mẹ, nên trứng không bị hư. Chư thiên thuộc ba tầng trời dưới của cõi Vô sắc cũng giống như ý hành, nhiều tư duy, cho nên đều dùng tư thực để tăng trưởng.

Lại, trong cõi người và sáu tầng trời cõi Dục, đều dùng đoàn thựctăng trưởng. Vì sao? Vì chúng sinh trong hai cõi này nhờ vào đoàn thực để nuôi sống thân mạng.

Còn toàn bộ chúng sinh trong các địa ngục và cõi Phi tưởng đều nhờ thức thực[58] để tăng trưởng. Vì sao? Vì chúng sinh trong địa ngục nhờ thức để giữ danh (tâm) và sắc (thân); còn chúng sinh cõi Phi tưởng dùng thức để giữ danh (tâm).

Lại, chúng sinh ở cõi Sắc và loài thấp sinh đều nhờ xúc thựctăng trưởng. Vì sao? Vì chúng sinh ở cõi Sắc cảm thụ niềm vui tu thiền định để nuôi thân; chúng sinh thuộc loài thấp sinh nhờ tiếp xúc với sự ẩm ướt để duy trì sự sống”.

XXI.4. Ngũ sinh

Luận Địa trì ghi: “Sinh thân của bồ-tát có năm loại trụ trong các hạnh, làm an lạc cho tất cả chúng sinh: sinh thân dứt khổ; sinh thân tùy loại; sinh thân thù thắng; sinh thân tăng trưởngsinh thân sau cùng.

nguyện lực mà bồ-tát ở trong đời đói khát làm thân loài cá lớn v.v… dùng thịt mình để cứu tất cả chúng sinh. Ở trong đời có nhiều bệnh tật, bồ-tát làm vị đại y vương chữa trị bệnh cho các chúng sinh. Ở trong đời binh đao, bồ-tát làm vua có thế lực mạnh để chấm dứt chiến tranh, dùng chính pháp để giáo hóa kẻ tà ác. Như thế, bồ-tát cứu vô lượng chúng sinh được vãng sinh, nên gọi là sinh thân dứt khổ.

Dùng năng lực của nguyện tự tại, nếu các loại chúng sinh như trời, rồng, quỷ, thần thay nhau nhiễu loạn và các hàng ngoại đạo khởi tà kiến, bồ-tát hiện thân vào trong đó, làm vị đứng đầu, chỉ dạy và dẫn dắt họ vào chính đạo. Đây gọi là sinh thân tùy loại.

Bồ-tát dùng tính để thụ thân, nên tuổi thọ và hình tướng của thân thù thắng hơn người ở thế gian, nên gọi là sinh thân thù thắng.

Từ bồ-tát Tịnh tâm trụ cho đến bồ-tát Tối thượng trụ, tự tại thụ sinh ở cõi Diêm-phù-đề, tất cả chỗ thụ sinh đều đặc biệt, đó là thân tăng thượng.

Bồ-tát tối thượng trụ thụ sinh, điều phục các nghiệp, bồ-đề tăng trưởng đầy đủ, sinh vào nhà sát-đế-lợi, bà-la-môn và chứng Vô thượng đẳng chính giác, làm tất cả các Phật sự, đó là sinh thân sau cùng.

Bồ-tát trong ba đời đều có năm loại sinh thân này, tất cả đều là thân tối thượng, nhân đó mà mau thành Vô thượng chính đẳng giác”.

[114c] Luận Du-già ghi: “Sinh thân của bồ-tát đại khái có năm loại, thâu nhiếp tất cả sinh thân. Tất cả bồ-tát thụ sinh thân không có tội, làm lợi ích an lạc cho các loài hữu tình. Năm sinh thân đó là sinh thân trừ tai họa; sinh thân tùy loại; sinh thânthế lực lớn; sinh thân tăng thượngsinh thân sau cùng.

Bồ-tát ở trong cảnh đói khát, làm loài cá lớn cứu giúp cho tất cả chúng sinh được no đủ. Hoặc có chúng sinh nào đau ốm, bồ-tát làm vị đại y vương, chữa trị cho họ lành bệnh; hoặc gặp lúc chiến tranh, bồ-tát làm vị vua có thế lực lớn, khéo dùng phương tiện để chấm dứt chiến tranh; hoặc nước có vua ác cai trị không đúng đạo lý, thì bồ-tát dùng nguyện lực thương yêu tất cả; hoặc khởi tà kiến để dứt trừ tà ác. Đó là lược nêu về sinh thân trừ tai họa.

Bồ-tát dùng sức nguyện lớn, sinh vào cõi có nhiều loài khác nhau, dùng phương tiện giáo hóa, khiến họ thực hành điều thiện. Đây là lược nêu sinh thân tùy loại.

Có bồ-tát khi nương vào tính thụ sinh, thụ hưởng phúc báo về tuổi thọ, thân thể, dòng họ tự tại, giàu sang v.v… rất thù thắng. Tất cả các việc làm đều lợi mình, lợi người. Đây là lược nêu sinh thânthế lực lớn.

Có bồ-tát giai vị Thập địa[59], thụ Thập vương hoa báo[60] rất tối thắng, thành tựu viên mãn. Đó là nhờ phúc nghiệp tăng thượng cảm ứng. Đây là lược nêu sinh thân tùy tăng thượng.

Có bồ-tát ngay trong đời này đã viên mãn tư lương bồ-đề, hoặc sinh vào nhà quốc vương tôn quý, có khả năng thị hiện bậc Đẳng giác, làm nhiều Phật sự. Đây là lược nêu sinh thân tối hậu.

Chỗ sinh về thanh tịnh, hiền thiện, thù thắng của các bồ-tát ở trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều thuộc vào năm thân này. Ngoài năm sinh thân này ra, không có sinh thân nào hơn, chỉ trừ phàm địa bồ-tát[61] thụ sinh. Vì ở đây ý muốn nêu sinh thân bồ-tát, là nơi nương gá của quả đại Bồ-đề, giúp cho các bồ-tát mau chứng quả Bồ-đề”.

XXI. 5. Trung ấm

Như luận Tân Bà-sa ghi: “Trung ấm có rất nhiều tên: trung hữu[62], kiền-đạt-phược, cầu hữu, ý thành.

Hỏi: Thế nào gọi là trung hữu?

Đáp: Vì thân này tồn tại trong khoảng thời gian từ một niệm sau khi thân này chết đến một niệm trước khi thụ sinh. Tức tự thể tồn tại trong thời gian giữa tử hữu[63] và sinh hữu[64].

Hỏi: sao trung hữu gọi là kiền-đạt-phược?

Đáp: Vì thân trung hữu chỉ ngửi hương để sống. Tên gọi này chỉ gọi thân trung hữu ở cõi Dục.

Hỏi: Vì sao thân trung hữu lại có tên là cầu hữu?

Đáp: Vì cầu sinh hữu ở sáu cõi.

Hỏi: Vì sao thân trung hữu lại gọi là ý thành?

Đáp: Vì từ ý sinh, nghĩa là các hữu tình từ ý sinh, hoặc từ nghiệp sinh, hoặc [115a] từ quả báo dị thục sinh, hoặc từ dâm dục sinh. Từ ý sinh là loài ngườikiếp sơ, thân trung hữu ở cõi Sắc, Vô sắc và thân biến hóa. Từ nghiệp sinh là chúng sinh trong các địa ngục. Như khế kinh ghi: “Loài hữu tình ở trong địa ngục, do nghiệp lực trói buộc không thể thoát ly, đó là sinh từ nghiệp lực, không phải từ ý. Từ quả dị thục sinh là các loài chim và quỷ thần; do năng lực quả báo dị thục của các loài ấy nhẹ, nên có khả năng bay trên hư không, không bị ngăn ngại. Từ dâm dục sinh là sáu tầng trời ở cõi Dục và loài người. Các thân trung hữu từ ý sinh, nên mọi hoạt động cũng đều theo ý. Đó gọi là ý thành”.

Lại nữa, luận Bà-sa ghi:

Hỏi: Thân trung hữu đầy đủ các căn không?

Đáp: Tất cả thân trung hữu đều đầy đủ các căn. Khi vừa mới thụ quả báo dị thục thì đã hoàn hảo. Nhưng cũng có thuyết cho rằng không toàn vẹn các căn, như cái ấn đóng vào vật thì hình tượng hiện ra. Từ thân trung hữu đến bản hữu[65] cũng như thế, khi ở giai đoạn bản hữu thì các căn không đầy đủ”.

Trong hai thuyết này, thuyết thứ nhất là đúng, nghĩa là thân trung hữu cầu thụ sinh ở sáu cõi thì các căn đầy đủ. Ở đây nói các căn như mắt v.v… chứ chẳng phải nam nữ căn. Thân trung hữu ở cõi Sắc thì không có các căn, còn thân trung hữu ở cõi Dục thì có, nhưng các căn ấy không nhất định. Thân trung hữu của hai hình thái thai sinhnoãn sinh đều có nam cănnữ căn, đến khi vào thai thì trở thành thiếu khuyết; nếu không như vậy thì không có nghĩa thai sinhnoãn sinh.

Hỏi: Hình tướng của thân trung hữu trong các đường như thế nào?

Đáp: Thân trung hữu trong địa ngục thì đầu hướng xuống chân hướng lên. Cho nên kệ ghi:

Rơi vào trong địa ngục,

Chân lên, đầu quay xuống,

Do hủy báng chư tiên,

Khổ hạnh nơi vắng lặng.

Thân trung hữu của các cõi trời, chân hướng xuống, đầu hướng lên, như người bắn mũi tên lên bầu trời, tư thế của thân trung hữu này hướng thẳng đến cõi trời. Còn các thân trung hữu của các loài khác đều hướng đi ngang, như chim bay ngang trong bầu trời hướng về tổ của nó; lại như các vị tiên bay được vẽ trên bức tường, toàn thân bay ngang tìm đến những nơi sẽ sinh về.

Hỏi: Tướng di chuyển của thân trung hữu đều như thế hết sao?

Đáp: Không hẳn như thế! Hơn nữa, căn cứ vào khi chết của loài người mà nói, nếu chúng sinhđịa ngục chết sinh trở lại địa ngục thì không hẳn chuyển theo tư thế đầu hướng xuống, chân hướng lên. Nếu loài trời chết, sinh lại cõi trời thì không hẳn với tư thế chân hướng xuống, đầu hướng lên. Nếu chúng sinhđịa ngục chết mà sinh vào cõi người thì chuyển theo tư thế đầu hướng lên. Nếu loài trời chết mà sinh về cõi người thì đầu quay xuống dưới. Nên biết, tướng di chuyển của thân trung hữu loài quỷ và bàng sinh như thế nào thì tùy theo nơi sinh đến của chúng.

[115b] Hỏi: Khi thân trung hữu sinh, có mặc áo không?

Đáp: Trung hữu ở cõi Sắc, hầu hết đều có áo, vì chúng sinh ở cõi Sắc rất hổ thẹn, hổ thẹn chính là y phục của pháp thân. Như pháp thân đầy đủ y phục tốt đẹp, thì sinh thân cũng vậy, cho nên thân trung hữu ở cõi ấy đều mặc áo. Thân trung hữu ở cõi Dục phần nhiều không có áo, vì chúng sinh trong cõi Dục phần lớn ít tàm quí, chỉ trừ bồ-tát và tì-kheo-ni bạch tịnh khi thụ thân trung hữu thường có y phục rất đẹp. Có thuyết khác ghi: Thân trung hữu của bồ-tát cũng có khi không mang y phục, nhưng thân trung hữu của tì-kheo-ni bạch tịnh thường mặc y phục.

Hỏi: Vì sao thân trung hữu của bồ-tát không có y phục, mà tì-kheo-ni bạch tịnh lại có y?

Đáp: Vì tì-kheo-ni bạch tịnh thường dùng y phục cúng dường cho tăng bốn phương, cho nên thân trung hữu của họ thường có y phục.

Hỏi: Nếu như thế, bồ-tát vào thời quá khứ cũng cúng dường y phục đẹp cho tăng bốn phương, dù tì-kheo-ni bạch tịnh cúng dường nhiều như vi trần cũng không thể so sánh với bồ-tát, sao thân trung hữu của bồ-tát không có y phục, mà họ lại có?

Đáp: Nguyện lực của họ khác với bồ-tát, vì sau khi tì-kheo-ni bạch tịnh cúng dường y phục cho tăng bốn phương xong, liền phát nguyện: “Nguyện con đời đời được mang y phục, cho đến thân trung hữu cũng không thể để lộ thân hình”. Do nguyện lực ấy, cho nên khi được sinh về bất cứ nơi nào họ thường được đầy đủ y phục. Đến thân sau cùng, khi thụ thân trung hữu cũng mang y phục vào thai mẹ và y phục không lìa thân cho đến khi xuất thai. Thân ấy cứ như thế, dần dần lớn lên, về sau xuất gia thụ giới cụ túc, liền chuyển thành ngũ y[66], nỗ lực tu chính hạnh, không lâu liền chứng quả A-la-hán. Về sau, khi chứng Niết-bàn, họ liền dùng y này trùm thân để thiêu. Bồ-tát trong quá khứ ba a-tăng-kì, tu tập vô lượng hạnh thiện thù thắng đều hồi hướng Vô thượng bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho mọi chúng sinh, do hạnh nguyện này, nên tuy được tướng hảo, nhưng không có y phục. Đó là nguyện lực thù thắng của bồ-tát chứ không phải nạn.

Hỏi: Có phải thức ăn của thân trung hữuđoàn thực không?

Đáp: Trung hữu của chúng sinh ở cõi Sắc không dùng đoạn thực. Thân trung hữu của chúng sinh ở cõi Dục thì dùng đoàn thực.

Hỏi: Trung hữu ở cõi Dục dùng đoàn thực như thế nào?

Đáp: Có thuyết ghi: “Trung hữu cõi Dục đến chỗ có thức ăn liền ăn; đến chỗ có thức uống liền uống. Nhờ thức ăn, thức uống đó để sinh sống, tồn tại”.

Thuyết này không đúng! Vì sao? Bởi vì trung hữu của chúng sinh rất nhiều, khó cứu tế hết được, cho nên khế kinh chép: [115c] “Như đổ lúa gạo đầy vào trong chảo lớn. Chúng sinh trong năm đường, thụ thân trung hữu khắp nơi, số lượng gấp bội với số lúa gạo kia. Gom hết tất cả thức ăn, thức uốngthế gian cũng chỉ đủ cung cấp cho trung hữu loài chó mà thôi. Trung hữu của một loại chúng sinh còn không thể cung cấp đủ, huống có thể cung cấp đủ cho tất cả trung hữu của các loài chúng sinh khác ư?” Lại, trung hữu rất nhẹ và nhỏ nhiệm, nếu thụ thức ăn thô nặng thân sẽ bị tan hoại. Nói đúng hơn, trung hữu chỉ hưởng mùi hương, chứ không thể ăn sắc chất thô, cho nên nếu khôngtội lỗi trong quá khứ thì gọi đó là chúng sinh có phúc, hưởng thụ các thứ hoa quả thanh tịnh, mùi hương nhẹ nhàng để sinh tồn. Nếu chúng sinh không có phúc thì hưởng các thứ không sạch, có mùi hôi thối, để sinh tồn. Lại nữa, các trung hữu ấy hưởng rất ít mùi hương, cho nên trung hữu dù nhiều vẫn cung cấp đủ.

Lại nữa, luận Đại tì-bà-sa trích dẫn lời dạy của Đức Thế Tôn: “Ba việc hòa hợp sẽ vào thai mẹ: một, cha mẹ đều có nhiễm tâm hòa hợp; hai, thân thể người mẹ an vui không bị bệnh, đúng thời; ba, kiền-đạt-phạ[67] đang ở ngay đó; bấy giờ kiền-đạt-phạ này lần lượt khởi hai tâm[68] mà nhập thai mẹ”. Cũng tức là: cha mẹ yêu thương giao phối nhau; thân thể người mẹ đúng thời an vui; Kiền-đàn-phạ hiện diện.

Cha mẹ đều có nhiễm tâm hòa hợp, nghĩa là cha mẹ đều khởi tâm tham dâm, rồi cùng nhau giao hợp.

Thân thể người mẹ đúng thời, an vui, nghĩa là người mẹ khởi tham dâm, thân tâm đều vui thích. Người trì luật cho là do người mẹ khởi tâm tham dâm, thân tâm vẩn đục như nước mùa xuân, mùa hạ chảy ra không thể tự kiềm chế, đó gọi là thân vẩn đục. Bụng mẹ không có các chứng phong nhiệt thay nhau bức bách, nên gọi là không mắc bệnh. Từ đây thai nhi được bảo bọc trong bụng mẹ khoảng chín hoặc mười tháng không bị hư hoại. Nói “đúng thời” là thân người mẹ có các chất dơ xấu, hằng tháng thường có khí huyết chảy ra. Nếu khí huyết chảy nhiều thì do quá ẩm ướt, nên thai không thành; nếu chảy ít, thì khiến cho quá khô, nên thai cũng không thành. Nếu khí huyết này vừa đủ, không khô không ướt thì thai nhi mới thành, gọi là đúng thời. Lúc thân trung hữu này nhập thai, chính là lúc còn lại hai giọt huyết sau cùng của người mẹ, kết hợp với một giọt tinh sau cùng của người cha, tinh và huyết này hòa quyện với nhau mới thành thai.

Kiền-đạt-phạ hiện diện, chính là thân trung hữu có mặt tại chỗ ấy, ngay lúc đó, không phải ở nơi khác, không sớm không muộn. [116a] Bấy giờ, kiền-đạt-phạ này hiện khởi hai tâm, liền nhập thai mẹ. Nghĩa là khi kiền-đạt-phạ sắp nhập thai, nếu kiền-đạt-phạ là nam thì khi sắp nhập thai thì khởi tâm thương yêu người mẹ; khởi tâm sân đối với người cha, và ngược lại.

Hỏi: Thân trung hữu nhập thai mẹ từ đâu ?

Đáp: Có thuyết ghi: thân trung hữu không bị ngăn ngại, tùy theo chỗ nó ưa thích đều có thể vào thai.

Hỏi: Nếu thân trung hữu không có gì ngăn ngại, tại sao lại phải nương thai mẹ?

Đáp: Do nghiệp lực dẫn dắt cho nên nương thai mẹ. Nghiệp lực của chúng sinh không thể nghĩ bàn, từ không chướng ngại thành có chướng ngại, vì thế chẳng nên gạn hỏi điều này. Phải nói: trung hữu nhập thai ắt từ sinh môn, chính là chỗ nó ưa thích. Từ lí này đưa đến song sinh, người sinh ra sau là anh, chị. Vì sao? Vì người nhập thai trước ắt sinh ra sau.

Hỏi: Trung hữu của bồ-tát nhập thai từ đâu?

Đáp: Bồ-tát nhập thai từ hông bên phải, biết rõ việc nhập thai, đối với người mẹ biết rõ là mẹ, không khởi tâm dâm ái. Lại có thuyết ghi: nhập thai từ sinh môn, vì các loài noãn sinh, thai sinh đều như thế cả. Lại có thuyết khác nói: bồ-tát có phúc trí rất lớn, cho nên khi sắp nhập thai, tâm hoàn toàn không điên đảo, không khởi dâm ái. Còn Chuyển luân thánh vương, độc giác tuy cũng có phúc trí nhưng không lớn, nên khi sắp nhập thai tuy không điên đảo cũng khởi dâm ái. Do vậy, khi nhập thai nhất định phải qua sinh môn.

Lại nữa, luận này trích dẫn: “Nếu cha mẹ nhiều phúc đức, con kém phúc đức thì không thể nhập thai. Nếu cha mẹ kém phúc đức mà con phúc đức lớn, cũng không thể nhập thai. Phúc và nghiệp của cha, mẹ và con bằng nhau mới nhập thai”.

Hỏi: Nếu bậc trượng phu giàu sang, giao hợp với người nữ bần cùng, hoặc người nữ giàu sang giao hợp với người nam bần cùng, thì trung hữu nhập thai như thế nào?

Đáp: Nếu người nam giàu sang giao hợp với người nữ bần cùng thì tự thân khởi tưởng thấp hèn, đối với người nữ kia sinh tâm tôn kính. Nếu người nữ giàu sang giao hợp với người nam bần cùng thì tự thân khởi tưởng thấp hèn, đối với người nam kia khởi tâm tôn quý. [116b] Nếu người nam bần cùng giao hợp với người nữ giàu sang thì tự thân khởi tưởng tôn quí, đối với người nữ khởi tưởng thấp hèn. Nếu người nữ bần cùng giao hợp với người nam giàu sang thì tự thân khởi tưởng tôn quí, đối với người nam kia khởi tưởng thấp hèn. Người con đối với cha mẹ khi sắp nhập thai cũng như thế, cho nên khi nhập thai đều có nghĩa bình đẳng.

Luận hỏi: Thân trung hữu nhỏ nhiệm, tất cả tường vách núi đồi, cây cỏ đều không thể ngăn ngại, còn trung hữu này với trung hữu kia có bị ngăn ngại với nhau không?

Đáp: Có thuyết ghi: thân trung hữu này với thân trung hữu kia cũng không ngăn ngại nhau, vì nó rất nhỏ nhiệm, nên khi thân tiếp xúc nhau, không hay biết. Lại có thuyết chép: thân trung hữu này với thân trung hữu kia cũng có ngăn ngại, vì khi tiếp xúc, hai bên có lời lẽ qua lại nhau.

Hỏi: Nếu như thế thì đâu thể cho rằng thân trung hữu không ngăn ngại?

Đáp: Không ngăn ngại đối với các vật, chứ không nói với thân trung hữu khác.

Hỏi: Tất cả thân trung hữu đều ngăn ngại nhau sao?

Đáp: Cùng loại thì ngăn ngại nhau, khác loại không ngăn ngại. Nghĩa là thân trung hữuđịa ngục ngăn ngại thân trung hữuđịa ngục; cho đến thân trung hữucõi trời luôn ngăn ngại thân trung hữu cõi trời. Có thuyết ghi: thân trung hữu thấp kém ngăn ngại thân trung hữu thù thắng, do thô nặng. Thân thù thắng không ngăn ngại thân thấp kém, do thân nhẹ. Thân trung hữu của chúng sinhđịa ngục ngăn ngại thân trung hữu của năm đường; thân trung hữu bàng sinh ngăn ngại thân trung hữu bốn đường; thân trung hữu ngạ quỉ ngăn ngại thân trung hữu trong ba đường; thân trung hữu loài người ngăn ngại thân trung hữu của hai đường; thân trung hữucõi trời chỉ ngăn ngại thân trung hữu loài trời.

Lại nữa, kinh Chính pháp niệm ghi: “Có mười bảy loại trung ấm hữu. Ông nên buộc niệm thực hành đạo tịch diệt. Nếu trời, hoặc người nhớ nghĩ đạo này, trọn không sợ sứ giả Diêm-la làm hại. Mười bảy thân trung ấm hữu là gì?

1. Chúng sinhcõi người, sau khi chết nếu sinh về cõi trời, thì thấy tướng vui, bấy giờ trung ấm giống như tấm lụa trắng tinh, mềm mại, rơi xuống; lại thấy vườn, rừng, hoa, ao; nghe các tiếng ca múa đùa cười; ngửi các mùi thơm. Các thứ đáng ưa thích như thế nhiều vô lượng. Trung ấm lần lượt an vui, tiếp xúc, liền sinh về cõi trời. Nhờ nghiệp thiện nên nay được thú vui ở cõi trời, tâm vui vẻ, miệng mỉm cười, thân thể thanh tịnh. Dù thân quyến thương xót khóc than, nhưng nhờ tướng thiện nên không nghe, không thấy, tâm cũng không nhớ nghĩ. Sau khi chết, liền sinh về chỗ vui, thân giống chư thiên, như in như ấn, thấy cõi trời thù thắng nên sinh tâm ưa thích cảnh trời, liền thụ thân trời.

2. Nếu thân trung ấm của người ở cõi Diêm-phù-đề sau khi chết, sinh về cõi Uất-đan-việt. [116c] thì thấy tấm lụa màu đỏ mềm mại đáng ưa, liền sinh tâm đắm trước và đưa tay nắm bắt như nắm bắt hư không, quyến thuộc cho rằng hai tay quờ quạng vào hư không. Lại có gió thổi đến, nếu người bệnh gặp lúc mùa đông lạnh, thì có gió ấm thổi đến đẩy lùi nỗi khổ bị lạnh; nếu gặp lúc nóng bức thì gió mát thổi đến xoa tan không khí nóng, khiến tâm vui vẻ. Vì tâm duyên theo sự vui vẻ ấy mà không nghe tiếng than khóc xót thương. Nếu nghiệp của người ấy dấy động thì tâm họ dấy động, nghe tiếng bi ai kia liền bị thổi đến nơi khác. Cho nên khi có người thân chết, mà thương xót khóc than thì rất chướng ngại. Nếu không bị trở ngại thì sẽ được sinh về cõi Uất-đan-việt. Trong thời gian đó, lần lượt có tướng thiện xuất hiện, thấy ao sen xanh, trong ao có nhiều ngỗng, vịt, uyên ương, thân trung ấm liền chạy đến, vào đó vui đùa. Nếu muốn vào thai mẹ, thì trung ấm từ ao sen này đi đến mặt đất, ngay lúc cha mẹ nhiễm dục giao hợp. Do việc bất tịnh này, đồng thời từ kiến chấp điên đảo, nên thấy người cha chính là ngỗng đực, người mẹ là ngỗng cái. Nếu sinh làm người nam thì tự thấy thân mình là ngỗng đực; nếu sinh làm người nữ thì tự thấy thân mình là ngỗng cái. Nếu sinh làm người nam thì ghét cha; mà yêu thích mẹ. Nếu sinh làm người nữ thì yêu mến cha mà ghét mẹ.

3. Nếu chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề chết, sinh về cõi Cù-da-ni, thì khi sắp chết, chúng sinh đó thấy nhà cửa đều màu vàng như mây màu vàng ròng che phủ; thấy trong hư không có dải lụa vàng, liền đưa tay nắm bắt. Anh em, thân quyến cho rằng hai tay người bệnh cào cấu hư không. Bấy giờ, tướng thiện người này sắp hết, thấy thân mình như trâu và thấy các bầy trâu, như thấy trong giấc mộng. Nếu sinh làm người nam thì thấy cha mẹ mình giao hợp, hành bất tịnh, thấy thân người và nhiều phòng nhà. Thấy hình tướng cha mình giống như trâu đực, liền đuổi người cha đi để giao hợp cùng người mẹ. Nếu sinh làm người nữ thì tự thấy thân mình giống như trâu cái, liền nghĩ như vầy: “Cớ gì trâu đực kia giao hợp với trâu cái này mà không giao hợp với ta?”. Nghĩ như vậy rồi liền thụ thân người nữ.

4. Nếu người cõi Diêm-phù-đề sau khi chết sinh về cõi Phất-bà-đề, thì thấy một dãi lụa xanh, màu xanh trùm khắp hư không và thấy phòng nhà trống rỗng. Sợ tấm lụa màu xanh ẩn mất liền dùng tay ngăn lại. [117a] Anh em quyến thuộc cho rằng người này ngăn hư không. Khi sắp chết, thân trung ấm như hình dáng con ngựa, thấy cha mình giống như ngựa đực, mẹ giống như ngựa cái. Khi cha mẹ ân ái giao hợp, nếu sinh làm người nam thì nghĩ: “Ta đang cùng với con ngựa cái này giao hợp”. Nếu sinh làm người nữ, thì tự thấy thân mình như hình ngựa cái và nghĩ: “Ngựa đực như thế, tại sao ta không giao hợp?”, nghĩ như vậy rồi, liền thụ thân người nữ.

5. Nếu người ở cõi Uất-đan-việt thuộc nghiệp bậc hạ khi sắp chết, trung ấm có tướng di chuyển lên phương trên. Nếu tâm nghiệp lớn, tự tại sinh về cõi trời, thì đưa tay nắm bắt hư không. Như những gì đã thấy trong mộng, ngửi mùi hương vi diệu của hoa, nắm trong tay hoa đẹp có màu sắc và hương thơm bậc nhất, thấy hoa sinh tâm tham đắm, liền suy nghĩ ta nên leo lên cây đẹp này! Nghĩ như vậy rồi liền leo lên cây, chính là leo lên núi Tu-di, thấy hoa quảcõi trời vô cùng xinh đẹp. Nghĩ rằng “Ta đang dạo chơi”.

6. Người ở cõi Uất-đan-việt, do nghiệp thuộc bậc trung, khi sắp chết sinh về cõi trời, thì thấy ao sen nở rất đẹp, có nhiều đàn ông cũng xinh đẹp, các nơi đều tỏa hương thơm; người đó bước lên hoa sen này rồi trong khoảng sát-na bay lên hư không. Giống như trong giấc mộng được sinh về cõi trời, liền nghĩ như vầy: “Nay ta sẽ đến ao sen tuyệt đẹp này!”.

7. Người ở cõi Uất-đan-việt do nghiệp thù thắng, sinh về Thiện pháp đường[69] của cõi trời Ba Mươi Ba. Khi sắp chết, người này thấy pháp đường xinh đẹp trang nghiêm bậc nhất. Bấy giờ, người này liền bay lên pháp đường, sinh làm thiên tử trong cung điện này.

8. Người ở cõi Uất-đan-việt sinh về cõi trời Ba Mươi Ba khi sắp chết, thấy đang vui đùa ở trong vườn rừng, hương thơm dễ chịu, nghe càng thích thú, không có các khổ não, tâm không vẩn đục. Nhờ tâm thanh tịnh nên bay lên cung điện trong hư không, cũng thấy các vị trời bay trong hư không, giống như trong mộng, thấy cõi trời Ba mươi ba thật xinh đẹp, có đầy đủ năm món dục lạc. Thế là, người này chết liền sinh về cõi trời Uất-đan-việt. [117b]

9. Người ở cõi Cù-da-ni sau khi chết sinh về cõi trời, có hai loại nghiệp là Dư nghiệpSinh nghiệp. Khi sinh về cõi trời, nhờ nghiệp thiện, cho nên khi sắp bỏ thân mạng, hơi thở không uất nghẹn, mạch không đoạn dứt, các căn thanh tịnh. Người này thấy một ao lớn, nước trong ao mát mẻ, dễ chịu, ròng rã tuôn ra, chảy đến bờ kia. Lại thấy các thiên nữ xinh đẹp tuyệt vời, trang điểm đủ loại, ca múa cười đùa. Thấy các cảnh ấy, người này muốn gần gũi, đến ôm người nữ, lập tức được sinh về cõi trời hưởng thụ khoái lạc như trong giấc mộng, trung ấm liền diệt. (Người ở cõi Cù-da-ni sinh về cõi trời có ba phẩm nghiệp thượng, trung và hạ đều có thân trung ấm như nhau, ánh sáng như nhau, không giống như ba loại người ở cõi Uất-đan-việt thụ sinh khác nhau).

10. Người ở cõi Phất-bà-đề khi lâm chung thấy tướng chết, thấy nghiệp của chính mình, hoặc nghiệp của người khác, hoặc thấy cung điện trang nghiêm thù thắng, tâm sinh hoan hỷ, muốn được sinh về chỗ ấy. Ở bên ngoài cung điện thấy có nhiều thể nữ vui chơi, ca hát cùng với những người nam. Ngay lúc đó, thân trung ấm nghĩ: “Ta muốn cùng vui chơi”, liền nhập vào nhóm đó, giống như đi vào giấc ngủ, liền sinh về cõi trời.

11. Các loài ngạ quỉ khi nghiệp ác đã hết, thụ các nghiệp thiện. Các nghiệp thiện này vốn được tạo ở các cõi khác, giống như cha mẹ, sắp sinh về cõi trời thì có các tướng xuất hiện. Chúng sinh ở trong cõi ngạ quỉ chết, sinh về cõi trời, thì lúc ở trong cõi ngạ quỉ, chúng sinh ấy bị đói khát thiêu đốt, thường ham ăn, thường nhớ thức uống, nhưng khi sắp chết, lại không khởi niệm này, tất cả đều diệt, xa lìa được tất cả nghiệp ác. Nay tuy thấy ăn uống, nhưng chỉ dùng mắt nhìn, như người trong mộng thấy việc ăn uốngcõi trời xinh đẹp này, chạy đến, liền sinh về cõi trời.

12. Chúng sinh do ngu si nên thụ thân súc sinh, chịu trăm nghìn ức thân sinh tử, đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh trôi lăn trong thế gian không thể cùng tận. Do còn nghiệp thiện, nên sau khi bỏ thân súc sinh [117c] liền được sinh về cõi Nhị thiền hoặc tầng trời Tứ Thiên Vương. Súc sinh, khi quả báo khổ sắp hết sẽ được thoát khỏi thân súc sinh. Khi sắp chết, nhờ còn nghiệp thiện nên thấy ánh sáng hiện, tâm ngu si mỏng dần; hoặc thấy cõi an vui, giống như những điều đã thấy trong mộng, liền chạy đến, ngay đó được sinh về cõi trời.

13. Chúng sinh trong địa ngục khó được sinh lên cõi trời, nhưng nhờ còn nhân duyên thiện, nên khi nghiệp thành thục, nghiệp báo hết sẽ được giải thoát. Chúng sinh trong địa ngục này, khi mạng sắp hết thì có các tướng hiện ra, như bị các ngục tốt ném vào trong chảo thì giống như tắm, hết tội không còn sinh về địa ngục; nếu dùng gậy đánh, ngay khi bị đánh liền chết, không còn sinh trở lại địa ngục nữa; nếu bị ném vào trong thùng sắt, ngay khi ném liền chết thì không còn sinh về địa ngục; nếu bị ném vào sông tro, vừa bị ném xuống liền tiêu tan, không còn sinh vào địa ngục; nếu bị đánh bằng gậy sắt, liền chết, không còn sinh vào địa ngục nữa; nếu bị các loài chim sắt, các loài thú dữ ăn thịt, thì không còn sinh vào địa ngục nữa. Chúng sinh trong địa ngục này, nghiệp ác đã hết, sau khi chết không còn thấy Diêm-la ngục tốt, như dầu hết thì đèn tắt, thân trung ấm trong địa ngục không xuất hiện, bỗng nhiên nghe giữa hư không có tiếng ca múa, cười đùa, gió thơm thổi vào thân, chúng sinh này cảm thụ sự vui sướng tột bậc, liền được sinh về cõi trời Ba Mươi Ba, hoặc sinh về tầng trời Tứ Thiên Vương.

14. Nếu chúng sinh trong cõi người chết sinh lại cõi người, thì lúc đó họ thấy bóng núi đá lớn đang ở trên đầu. Bấy giờ, người này nghĩ: “Quả núi này sẽ đè trên thân ta!”, cho nên đưa tay muốn ngăn quả núi lại. Thân quyến thấy vậy, cho là người này nắm bắt hư không. Thấy như vậy rồi, người này lại thấy quả núi giống như dải lụa trắng, liền bay lên dải lụa ấy; rồi thấy dải lụa đỏ… lần lượt thấy như thế cho đến lúc sắp chết thì thấy ánh sáng, thấy cha mẹ ân ái hòa hợp liền khởi tâm điên đảo. Nếu sinh làm người nam, thì tự thấy thân mình giao hợp với người mẹ; người này cho người cha là vật ngăn ngại. Nếu sinh làm người nữ, thì tự thấy thân mình giao hợp với người cha, cho người mẹ là vật ngăn ngại. Ngay lúc ấy, thân trung ấm này hoại, thân kế tiếp hình thành, như ấn sáp ấn xuống bùn, ấn sáp hoại thì đường nét thành.

[118a] 15. Chư thiêncõi trời sau khi chết sinh về cõi trời trên thì không có khổ não. Như các vị trời khác khi sắp chết, do có nỗi khổ thương yêu chia lìa, nên bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Các vị trời này không mất những vật dụng trang nghiêm thân mình, cũng không có vị trời khác ngồi vào chỗ của mình, liền sinh về cõi trời tốt đẹp hơn. Như các vị trời ở Tứ Thiên Vương sau khi chết sinh lên cõi trời Ba Mươi Ba có tướng tốt đẹp đáng ưa thích.

16. Nếu các vị trời từ cõi trời trên sinh xuống cõi trời dưới, thì lúc đó thấy các cảnh hoa sen, vườn cây, ao hồ v.v… đều không giống như nơi mình ở. Khi thấy như vậy rồi, liền đói khát, khổ não mong muốn được sinh đến cõi ấy. Như vậy, tuy cùng sinh về cõi trời, nhưng trung ấm có hai loại tướng sinh khác nhau.

17. Nếu chúng sinh ở cõi Phất-bà-đề sinh vào cõi Cù-đà-ni, có những tướng như thế. Còn chúng sinh ở cõi Cù-đà-ni sinh vào cõi Phất-bà-đề thì có những tướng gì? Người trong hai cõi ấy sinh qua lại lẫn nhau đều cùng một tướng. Khi sắp chết, họ thấy một hang tối, trong hang đó có tia chớp đỏ chiếu xuống như lá phướn, hoặc màu đỏ, hoặc màu trắng. Người ấy nhìn thấy liền đưa tay nắm bắt, vin theo phướn mà vào trong hang này, sinh ấm liền diệt, thụ thân trung ấm. Khi sắp thụ thân sau, cũng giống như đã trình bày ở trước. Hoặc thấy hai con trâu, hoặc hai con ngựa ân ái giao hợp, liền sinh tâm dục; khi sinh tâm dục liền thụ sinh ấm”.

XXI.6. Thụ thai

Luật Thiện kiến ghi: “Người nữ khi sắp mang thai, thì nguyệt hoa thủy (một loại máu) chảy ra, nơi mang thai sinh một cục máu, sau bảy ngày tự vỡ rồi chảy ra. Nếu máu chảy không dứt thì tinh trùng của người nam không bám vào được mà cùng chảy ra ngoài. Nếu máu hết chảy, thì tinh trùng trở lại vùng ấy, sau đó mới kết thành thai. Lại nữa, người nữ có bảy việc đưa đến thụ thai: một là tiếp xúc nhau; hai, nhận áo; ba, rơi tinh; bốn, xoa tay; năm, thấy sắc; sáu, nghe tiếng; bảy, ngửi mùi”.

Hỏi: Thế nào là tiếp xúc nhau thụ thai?

Đáp: Khi người nữ có nguyệt thủy, rất thích người nam, nếu người nam [118b] dùng thân mình tiếp xúc với phần thân của người nữ, liền sinh yêu thích mà mang thai.

Hỏi: Sao gọi là nhận áo thụ thai?

Đáp: Như Ưu-đà-di cùng với vợ xuất gia, nhưng dục ái vẫn không dứt, nên hai người thăm hỏi nhau, tâm dâm bộc phát, xuất tinh vấy vào áo, người vợ dùng lưỡi liếm tinh đó và bỏ vào nữ căn, do đó mà thụ thai.

Hỏi: Thế nào là hạ tinh thụ thai?

Đáp: Như Lộc Mẫu do dục tâm mà uống tinh của đạo sĩ, liền mang thai sinh ra đạo sĩ Lộc Tử.

Hỏi: Sao gọi là thụ thai do dùng tay xoa?

Đáp: Như cha mẹ của bồ-tát Thiểm Tử sắp bị mù, Đế Thích biết được, bèn xuống gặp và bảo: “Âm dương hòa hợp mới sinh con!”. Nhưng vợ chồng người ấy đã xuất gia, nên thưa với Đế Thích: “Chúng tôi đã xuất gia, theo giới luật thì không được làm như vậy”. Đế Thích mới bảo: “Như vậy nên lấy tay xoa rốn”. Hai vợ chồng bèn làm theo lời chỉ bảo của Đế Thích liền mang thai sinh ra Thiểm Tử.

Hỏi: Sao gọi là thấy sắc thụ thai?

Đáp: Có một người nữ, đến kỳ kinh nguyệt mà không được giao hợp với người nam, vì tình dục quá mạnh, nên chỉ thấy người nam liền thụ thai, như cung nữ.

Hỏi: Sao gọi là nghe âm thanh thụ thai?

Đáp: Như loài hạc trắng chỉ có chim mái mà không có chim trống, đến mùa xuân, khí dương bắt đầu bao phủ, tiếng sấm vừa phát ra, chim hạc mái lắng nghe tiếng sấm, liền mang thai. Gà cũng có khi nghe tiếng gà trống mà mang thai.

Hỏi: Sao gọi là ngửi mùi thơm liền thụ thai?

Đáp: Như trâu cái chỉ ngửi mùi trâu tơ mà mang thai.

Kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các thầy tì-kheo, có ba nhân duyên thần thức không thể thụ thai: một, người mẹ khởi tâm dục, cha mẹ cùng ở một chỗ, nhưng bên ngoài thần thức chưa đến, thì không thụ thai; nếu thần thức đến mà cha mẹ không cùng ở một chỗ, thai cũng không thành; hai, nếu người mẹ không khởi tâm dục, người cha tâm dục khởi mạnh, người mẹ không ưa thích việc dục nên không thụ thai; ba, nếu cha mẹ cùng ở một chỗ, người mẹ khởi dục mạnh, nhưng người cha không ưa thích thì cũng không thụ thai.

Lại có ba trường hợp: một, nếu cha mẹ cùng ở một chỗ, cha bị bệnh phong, mẹ bị bệnh hàn, thì không thụ thai; hai, nếu mẹ có bệnh phong, cha có bệnh phong thì cũng không thành thai; ba, nếu thân thể người cha có nhiều thủy khí, mẹ không bị bệnh này cũng không thụ thai.

Lại có ba trường hợp: một, nếu cha mẹ cùng ở một chỗ, mà tướng cha có con nhưng tướng mẹ không có con thì không thụ thai; hai, nếu tướng mẹ có con nhưng tướng cha không có con thì cũng không thụ thai; ba, nếu tướng cha mẹ đều không có con thì không thụ thai.

Lại có ba trường hợp: một, đúng thời, thần thức đến, nhưng cha đi xa thì không thụ thai; hai, nếu đã đúng thời, cha mẹ lẽ ra cùng ở một chỗ, [118c] nhưng mẹ đi xa thì cũng không thụ thai; ba, cha mẹ cùng ở một chỗ thì thụ thai.

Lại có ba trường hợp: một, nếu đã đúng thời cha mẹ cùng ở một chỗ, nhưng thân cha bị bệnh nặng, dù thần thức đến, cũng không thụ thai; hai, nếu thân mẹ bị bệnh nặng, cũng không thụ thai; ba, nếu cha mẹ đều bị bệnh nặng thì không thụ thai, cha mẹ không bị bệnh, thần thức đến, cha mẹ đều đủ tướng có con thì thụ thai”.

Luận Du-già ghi: “Lại nữa, thai tạng này có tám vị khác nhau: yết-la-lam; át-bộ-đàm; bế-thi; kiện-nam; bát-la-xa-khư; phát mao trảo; căn; hình. Thai vừa kết tụ nhưng vẫn còn lỏng, gọi là yết-la-lam. Nếu trong ngoài như sữa đặc, mà chưa phát triển thành thịt, gọi là át-bộ-đàm. Khi đã phát triển thành thịt, nhưng còn rất mềm thì gọi là bế-thi. Khi đã cứng chặt, có khả năng chịu đựng xúc chạm gọi là kiện-nam. Khối thịt này phát triển lớn dần và xuất hiện các tướng chi phần, gọi là bát-la-xa-khư. Khi tóc, lông, móng… xuất hiện, thì gọi là phát mao trảo. Từ đây về sau các căn như mắt, tai v.v… phát sinh, gọi là căn. Từ đây về sau, sở y của các căn hiện bày rõ ràng, gọi là hình.

Ở trong thai, đứa bé do nghiệp lực trước kia, hoặc do mẹ không tránh được sự bất bình nên buồn vui tức giận, tác động đến bào thai, khiến thai này, hoặc tóc, hoặc màu sắc, hoặc da, cho đến các chi phần đều bị biến đổi. Tóc biển đổi, là do nghiệp tạo tác đời trước, có thể chiêu cảm nghiệp ác bất thiện này và do người mẹ có thói quen dùng các vị mặn, hoặc ăn mặn hoặc uống mặn, khiến cho tóc của thai nhi thưa thớt. Màu sắc biến đổi, là do nghiệp đời trước và do người mẹ khi mang thai hay gần với khói lửa, nên khiến cho thai nhi khi sinh ra có da màu đen. Lại do người mẹ khi mang thai ở gần chỗ quá lạnh, nên khiến thai nhi sinh ra có da màu trắng. Lại do người mẹ ăn nhiều đồ nóng, khiến thai nhi sinh ra có da màu hồng. Da biến đổi là do nghiệp đời trước và do thói quen của người mẹ khi mang thai thường khởi dâm dục, khiến thai nhi khi sinh ra hoặc da bị xấu xí lở loét v.v… Chi phần biến đổi là do nghiệp đời trước và do người mẹ khi mang thai không có oai nghi, bôn ba chạy nhảy và không kiêng cử, không quân bình v.v… [119a] nên khiến thai nhi khi sinh ra các căn và các chi phần khuyết thiếu.

Lại nữa, nếu thai nhi là nữ thì nằm bên hông phải của người mẹ, tựa vào xương sống, mặt hướng về bụng; nếu thai nhi là nam thì nằm bên hông trái của mẹ, tựa vào bụng, mặt hướng vào xương sống.

Lại khi thai nhi đã đầy đủ vóc hình, người mẹ không mang nổi, sức gió bên trong liền phát sinh, rất khổ não, cũng do nghiệp báo của thai nhi này mà gió sinh phần phát khởi, khiến cho đầu hướng xuống, chân hướng lên, bọc thai quấn kín rồi hướng đến chỗ sinh ra. Đúng thời kỳ sinh nở, bọc thai liền tách ra thành hai lá. Khi ra khỏi bụng mẹ, gọi đó là đã sinh. Sau khi sinh, các căn lần lượt tiếp xúc với cảnh, tức là nhãn xúc cho đến ý xúc”.

Bài tụng:

Lẽ nghiệp thật nhiều mối,

Đường sống cũng vô cùng,

An, nguy thành đôi ngã,

Dơ sạch, đâu cùng nguồn.

Chết đi không hình dáng,

Thần thức lần theo hương,

Đọa lạc nẻo tăm tối,

Bước lên con đường sáng,

Khí âm thật giá buốt,

Uy thanh xướng rền vang,

Ném mình trong nhà cỏ,

Vui nghĩ vào vườn hoa,

Tình vợ chồng nhiễu loạn,

Tham sân mê muội mình,

Biến Tri xưng Chính Giác,

Đưa tay độc xưng Tôn. 

Chúc Đức dịch



[1] Ba xe (tam xa 三車): phẩm thí dụ trong kinh Pháp hoa nói về ba xe. Xe dê dụ cho hàng thanh văn tu hạnh tứ đế, cầu ra khỏi ba cõi, nhưng chỉ muốn tự độ, không nghĩ đến người khác; xe nai dụ cho hàng duyên giác tu mười hai nhân duyên để cầu ra khỏi ba cõi, có tâm vị tha; xe trâu dụ cho hàng bồ-tát tu hạnh lục độ, tự lợi lợi tha viên mãn.

[2] Tương ưng tâm 相應心: vọng tâm duyên với các phiền não mê lầm.

[3] Luận Đối Pháp (Đối pháp luận 對法論): tức luận Câu-xá do ngài Thế Thân trước tác, hàm nhiếp diệu nghĩa của luận Lục túc, luận Phát trí v.v.

[4] Phương tiện đạo 方便道: một trong bốn quá trình đoạn trừ phiền não chứng đắc chân lí.

[5] Vô gián đạo 無 間道: sự tu hành bắt đầu đoạn trừ các phiền não phải đoạn trừ mà không bị phiền não làm chướng ngại, nhờ đó có thể tiến đến giải thoát đạo không có xen hở.

[6] Tư nghiệp 思業: tư duy trước những việc phải làm và suy nghĩ muốn làm việc gì đó.

[7] Các hữu (chư hữu 諸有): tất cả những nghiệp do chúng sinh gây tạo, từ nhân sinh quả, những nhân duyênquả báo này thật có, không hư dối; cho nên gọi là Hữu. Hữu có thể chia làm các loại: tam hữu, tứ hữu, thất hữu, cửu hữu, nhị thập ngũ hữu, gọi chung là chư hữu.

[8] Các hành (chư hành 諸行): tất cả các pháp hữu vi. Hành là biểu thị cho pháp do nhân duyên hòa hợp mà thành.

[9] Kết sinh 結生 (S: pratisaṃdhi): thân trung hữu gá sinh vào thai mẹ.

[10] Hai tâm (nhị tâm 二心): chân tâmvọng tâm.

[11] Tác nghiệp, vô tác nghiệp 作業,無作業: pháp tạo tác và pháp không do tạo tác.

[12] Tứ y 四依 (S: catvāri pratisaraṇāni): bốn hành pháp mà người tu phải nương theo để nhập đạo, là chỗ y chỉ của bậc thượng căn lợi khí: một, mặc y phấn tảo, cũng gọi là áo nạp, là lượm năm thứ y phục vứt bỏ ngoài đồng, coi như thứ bẩn lau phân, lấy về may lại mặc; hai, thường đi khất thực để nuôi sống; ba, ở dưới gốc cây hay hang đá để tu tập; bốn, khi dùng trần hủ dược, hay dùng các vị thuốc do súc vật bài tiết chế thành, hoặc chôn nước tiểu trâu và quả đại hoàng vào lòng đất đợi lên men rồi uống. Nếu tì-kheo thực hành theo bốn pháp này thì cuộc sống tự tại giải thoát.

[13] Phương tiện, căn bản, thành dĩ 方便根本成已: quá trình tạo nghiệp được chia làm ba giai đoạn, đó là gia hành, căn bản và hậu khởi.

[14] Ác luật nghi 惡律儀: vô biểu sắc bất thiện sinh khởi do tham lợi hoặc do cuộc sống mà làm các nghiệp sát sinh …. Kinh Đại phương tiện Phật báo ân nêu ra mười hai loại ác luật nghi: kẻ làm hàng thịt; đầu đảng giết người; nuôi heo; nuôi gà; đánh cá; săn bắn; giăng lưới bắt chim; bắt rắn; chú rồng; cai tù; làm kẻ cướp; vương gia sai bắt giặc.

[15] Nam Diêm, Đông Phất, Tây Da 南 閻東弗西耶: ba châu trong bốn đại châu. Theo thế giới quan của người Ấn Độ thời xưa cho rằng trong lớp biển mặn giữa bảy lớp núi vàng và núi đại Thiết Vi, ở bốn phía núi Tu-di có, bốn đại châu.

[16] Bắc Đơn 北單 (Cg: Bắc Câu-lô châu; Hd: Thắng xứ): châu này nằm trong biển mặn ở phía bắc núi Tu-di, hình vuông, mỗi cạnh dài hai nghìn do-tuần, giống như nắp hộp, bao quanh có núi Thất Kim, núi Đại Thiết Vi, đất bằng vàng ròng, ngày đêm chói sáng. Đất có đủ bốn tính chất: bằng phẳng, vắng lặng, sạch sẽ và thoải mái. Nhân dân ở châu này có gương mặt chữ điền giống như hình thể cuộc đất họ sống, ai nấy sắc diện giống nhau và đều cao một trượng tư (4,8m). Họ sống bình đẳng, an lạc, không có điều gì trói buộc… sống đủ một nghìn năm. Sau khi chết, họ được sinh lên cõi trời Đao-lợi hoặc Tha Hóa Tự Tại.

[17] Sáu tầng trời cõi Dục (Lục Dục thiên 六欲天): Tứ Thiên Vương thiên; Tam Thập Tam thiên; Diêm Ma thiên; Đâu-suất thiên; Hóa Tự Tại thiên; Tha Hóa Tự Tại thiên.

[18] Báo sinh 報生: quả báo tự nhiên sinh ra, không phải do tu tập mà được. Bồ-tát từ bát địa trở lên, lúc thụ thân biến dịch, ngay lúc sinh ra tự nhiên đã định, gọi là báo sinh tam-muội.

[19] Nhuận nghiệp thụ sinh 潤業受生: lấy phiền não câu sinh khởi để tưới tẩm nghiệp đã tạo mà sinh ra quả khổ ở vị lai.

[20] Tổng báo 總 報: do sức nghiệp dẫn của thức thứ tám có công năng dắt dẫn chúng sinh chiêu cảm tổng thể của dị thục như ngũ thú, tứ sinh. Thí như loài người, cùng sinh làm quả báo cõi người thì gọi là tổng báo.

[21] Trung hữu 中有 (S:antarā-bhava): thân của chúng sinh trong khoảng thời gian từ khi chết đến lúc được thụ sinh; một trong bốn hữu; một trong bảy hữu.

[22] Nạn xứ 難 處 (Gđ: Bát nạn xứ): tám nơi khó thể tu tập Phật pháp. Đó là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, cõi trời trường thọ, biên địa, chư thiên ở cõi Sắc và Vô sắc, Bắc-câu-lô châu, người thông hiểu học thuyết thế gian, người sinh trước Phật hoặc sau Phật.

[23] Phi luật nghi 非 律儀: tì-kheo như người nông dân gần gũi người hiền, lắng nghe chính pháp, suy nghĩ những điều hay lẽ phải, lấy đó làm cảnh giới tu tập, khiến họ sinh ra những hạt giống lành. Nếu tâm tính người kia nhiều tham lam chưa từng tu tập và cũng chưa từng biết hổ thẹn, nên khi gặp cảnh vừa ý thì khởi tâm tham, chấp chặt không bỏ, tâm tham trói buộc nên không giữ giới, buông thả theo đời, suy nghĩ những điều phi lý, giống như con trâu vào ruộng phá hoại lúa của người. Cũng vậy, vị tì-kheo này phá hoại hết các hạt giống thiện.

[24] Kiếp tân 劫新: kiếp mới được hình thành.

[25] Biệt giải thoát giới 別 解脫戒: một trong ba thứ luật nghi, là giới luật mà bảy chúng mỗi mỗi phân biệt thụ trì để xả bỏ các điều ác ở bảy chi nơi miệng và thân.

[26] Tán thiện 散善: thiện nghiệp được tu tập với tâm tán loạn. Sư Thiện Đạo thì cho rằng tu ba phúc chín phẩm đều là tán thiện.

[27] Tứ thiền 四 禪 (Cg: Tứ thiền định; S: catvāri dhyānāni): bốn loại thiền định căn bản dùng để đối trị hoặc nghiệp và sinh ra các công đức. Đó là sơ thiền, nhị thiền, tam thiềntứ thiền thuộc cõi Sắc, nên còn gọi là Sắc giới định.

[28] Tứ thiền bát định 四 禪八定 (S: catvāri-dhyānāni): tứ thiền cõi Sắc và tứ định cõi Vô sắc hợp chung thành bát định. Do cõi Sắc và cõi Vô sắc đối nhau nên ở cõi Sắc là thiền, còn ở cõi Vô sắc là định; nếu cõi Sắc và cõi Vô sắc đối lại với “Tán” ở cõi Dục thì cõi Sắc và cõi Vô sắc đều gọi là định. Nếu phân biệt thiền định cõi Sắc và cõi Vô sắc thì thiền định cõi Sắc là “Định, huệ bằng nhau”, còn thiền định cõi Vô sắc thì tướng của nó vi tế và “Định nhiều huệ ít”.

[29] Bất động hạnh 不動行: các thiện hữu lậu của bốn định cõi Vô sắc.

[30] Sinh không 生空 (S: ātma-śūnyatā): chúng sinh do năm uẩn sắc, thụ, tưởng, hành, thức giả hợp mà thành, không có ngã thể thường nhất.

[31] Ngã đảo 我倒: Kiến chấp hư vọng, điên đảo cho là có thật ngã.

[32] Ba tính (tam tính 三性): thiện, ác, vô kí.

[33] Chim cánh vàng (Kim sí điểu 金翅鳥; S: suparṇa ): một loại chim giống như chim diều hâu trong thần thoại Ấn Độ. Đây là loại chim được thần thoại hóa, thân to lớn và hung dữ, là loài chim trời Tì-thấp-nô cưỡi. Tương truyền lúc mới sinh ra, thân nó phát ánh sáng chói lọi, chư Thiên lầm tưởng là Hóa thiên nên kéo nhau đến lễ bái. Trong các kinh điển Phật giáo thường có nói đến loại chim này.

[34] Bách luận 百論 (S: Śataśāstra): luận, hai quyển, do ngài Đề-bà ở Ấn Độ soạn, ngài Cưu-ma-la-thập dịch, được xếp vào Đại Chính tạng, quyển 30. Nội dung bộ luận này nói về nghĩa lí không, vô ngã của Phật giáo Đại thừa để bác bỏ các kiến chấp của ngoại đạo Số Luận.

[35] Kho báu (phục tạng 伏藏): nơi cất giữ báu vật hoặc kinh điển được thiết lập trong lòng đất. Phục tạng dụ cho chúng sinh không biết ngay tự thân mình có Phật tính, đợi đến lúc Phật thuyết pháp chỉ dạy mới giác ngộ.

[36] Cái (S: Āvaraṇa): phiền não ngăn che thiện tâm. Cái gồm có năm thứ như tham dục, sân khuể, thùy miên, trạo cử và nghi.

[37] Năm dục (ngũ dục 五 欲; S: panca Kamah): năm thứ ham muốn sinh ra từ sự nhiễm trước của năm trần. Có năm thứ: sắc dụcham muốn sắc đẹp của thế gian; thanh dục: ham muốn âm thanh; hương dục: ham muốn mùi thơm; vị dục: ham muốn những thức ăn ngon; xúc dục: ham muốn sự xúc chạm.

[38] Bốn niệm xứ (tứ niệm xứ 四念處): một khoa trong bảy khoa thuộc ba mươi bảy phẩm trợ đạo, là bốn phương pháp tập trung tâm niệm vào một điểm, đề phòngngăn ngừa không cho tạp niệm vọng tưởng sinh khởi để đạt được chân lí.

[39] Lạc 酪: chất dinh dưỡng đặc chế từ sữa bò, có mùi vị thơm ngon tuyệt hảo, là một trong năm vị bổ dưỡng nhất.

[40] Khẩn-đà-la 緊 陀羅 (S: Kiṃnara): chỉ các vị thần trong thần thoại Ấn Độ, sau được Phật giáo dung nạp và xếp vào bộ thứ bảy trong tám bộ chúng, hình dáng của vị thần này giống như người, nhưng trên đảnh đầu có một cái sừng.

[41] Cây đàn của a-tu-la (a-tu-la cầm 阿修羅琴): loài a-tu-la do phúc đức mới có cây đàn này. Khi a-tu-la muốn nghe một nhạc khúc, dù không có người đàn, cây đàn ấy cũng có khả năng phát ra âm thanh đúng theo sở thích của họ.

[42] Kết sử 結使: tên khác của phiền não. Kết là phiền não trói buộc chúng sinh làm cho họ không thoát khỏi sinh tử; sử là các phiền não sai khiến làm não loạn chúng sinh. Kết có chín loại, sử có mười loại, gọi là chín kết mười sử.

[43]Thằng sàng 繩床: loại ghế làm bằng dây, dùng để ngồi hoặc nằm; một trong mười tám vật của tì-kheo.

[44] Bản sinh 本生: sự tích Đức Phật trong đời quá khứ thụ các thân hìnhthân phận khác nhau mà tu đạo Bồ-tát.

[45] Tứ vô lượng tâm 四 無量心 (S: catvāry apramāṇāni): bốn tinh thần phải có của Phật và bồ-tát để độ khắp vô lượng chúng sinh, làm cho chúng sinh lìa khổ được vui. Đó là từ, bi, hỷ, xả.

[46] Ngũ thần thông 五 神通 (S: pañcābhijñā): năng lực siêu việt tự nhiên đạt được do tu tập bốn tĩnh lự căn bản. Đó là thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông.

[47] Dục giác 欲覺: cảm giác của tham dục, một trong ba ác là dục giác, sân giáchại giác.

[48] Ưu-đà-na 優陀那 (S: udāna): đây có nghĩa là hơi thở.

[49] Ác giác quán 惡覺觀: tư tưởng xấu, có tám thứ khác nhau. Theo Đại Thừa Nghĩa chương thì tư tưởng sai gọi là giác, trái với lẽ thật gọi là ác.

[50] Nhân không 人空: quán con người do năm uẩn giả hợp làm duyên sinh ra, biết nó là ngã thể vô thường, nên gọi là nhân không.

[51] Bốn dòng (tứ lưu 四流): chúng sinh bị bốn pháp này mà sinh tử không dứt. Kiến lưu là sự thấy sai lầm trong ba cõi; dục lưu là tất cả các sai lầm trong cõi Dục, chỉ trừ kiến và vô minh; hữu lưu là sự mê lầm của cõi Sắc và Vô sắc, chỉ trừ kiến và vô minh; vô minh lưu là sự vô minh trong ba cõi.

[52] Sắc 色 (S: rūpa): từ gọi chung cho tất cả vật chất tồn tại; theo nghĩa hẹp thì sắc chỉ riêng những đối tượng của nhãn căn, nói rộng là sắc uẩn trong năm uẩn, sắc pháp trong năm vị. Sắc có tính chất biến hoại và ngăn ngại.

[53] Vô sắc 無色 (S: ārūpya): thế giới siêu việt vật chất, là cõi trời sẽ sinh về sau khi chết của những người nhàm chán sắc tưởng vật chất mà tu Tứ vô sắc định; nghĩa là sự sinh tồn của hữu tìnhthế giới này hoàn toàn không có sắc pháp, nơi chốn, do đó nên không có không gian khác nhau, nhưng do quả báo tốt xấu sai biệt nên chia thành bốn không xứ, đó là Không Vô Biên xứ, Thức Vô Biên xứ, Vô Sở Hữu xứ, Phi Tưởng Phi Thi Tưởng xứ.

[54] Thủy luân 水 輪 (S: jala-maṇḍala): nằm trên Phong luân và ở dưới Kim luân. Ba luân này là sự thành lập đầu tiên của thế giới bắt đầu từ dưới lên trên, do ba lớp kiên cố này giữ gìn.

[55] Đoàn thực 段食 (S: kavaḍiṃkārāhāra, kavlī-kārāhāra): cõi Dục lấy hương, vị, xúc làm thể, ăn từng nắm từng miếng, từng phần bằng miệng và mũi. Đoàn thực chia làm hai phần: thô là cơm, cá, thịt; tế là sữa, hương và các thức uống.

[56] Tư thực 思 食: (S: manaḥ-saṃcetanā-āhāra): thức ăn của ý thức, là một trong bốn loại thức ăn, một trong chín loại thức ăn. Khi tâm sở tương ưng với thức thứ sáu, đối với cảnh vừa ý thì khởi tâm mong cầu, khiến cho các căn sinh trưởng liên tục. Như người đói khát chỉ nghĩ đến ăn uống khiến cho họ no.

[57] Ý hành 意行: những tâm sở pháp nương ở tâm, trói buộc tâm, nương vào tâm mà lưu chuyển, trợ giúp tâm, cho nên suy nghĩ gọi là ý hành.

[58] Thức thực 識 食 (S: vijñānākārāhāra): thức hữu lậu do thế lực của đoàn thực, xúc thựctư thựctăng trưởng. Lấy thức a-lại-da làm thể, duy trì thân mạng hữu tình không hư hoại, như chúng sinh cõi Vô sắcđịa ngục lấy thức làm thức ăn.

[59] Thập địa 十 地 (S: bhūmi): mười giai vị trong quá trình tu tập của bồ-tát để tiến lên quả vị Phật. Đó là Hoan Hỷ địa, Li Cấu địa, Minh địa, Diệm địa, Nan Thắng địa, Hiện Tiền địa, Viễn Hành địa, Bất Động địa, Thiện Huệ địaPháp Vân địa.

[60] Thập vương hoa báo 十 王華報: hàng bồ-tát thập địa tu tập giáo hóa thành tựu công đức lớn, nên được quả báo làm vua cõi Diêm-phù-đề cho đến vua cõi trời Ma-ê-thủ-la và thập đại thiên vương, luôn giáo hóa chúng sinh. Vì làm thập vương là nói theo quả của bồ-tát thập địa, nên gọi là hoa báo.

[61] Phàm địa bồ-tát 凡地菩薩: bồ-tát ngoại phàm trước Thập tín, hoặc chỉ cho bồ-tát trước Thập địa.

[62] Trung hữu 中有 (S: antarā-bhava): thức thân của chúng sinh trong khoảng thời gian từ khi chết đến lúc được thụ sinh.

[63] Tử hữu 死有 (S: maraṇa-bhava): sát na cuối cùng của thọ mạng, tức là phần sắc tâm sau bản hữu, trước trung hữu.

[64] Sinh hữu 生有 (S: upapatti-bhava): sát-na đầu tiên khi sinh duyên thành thục, thoát li trung hữu và thác sinh vào thai mẹ.

[65] Bản hữu 本有 (S: pūrva-kāla-bhava): từ sau khi thụ sinh cho đến khi chết, hiện thân trong khoảng đó gọi là thân bản hữu.

[66] Ngũ y 五衣 (S: pañca cīvarāṇi): y năm điều, y phục mặc bình thường của tì-kheo.

[67] Kiền-đạt-phạ (Kiền-đạt phược 健達縛; S: gandharva): tên khác của thân trung hữu.

[68] Hai tâm (nhị tâm 二心): đình tâmtán tâm. Đình tâmđình chỉ vọng niệm tạp lự, tâm trụ một cảnh; tán tâm là tâm rong ruổi theo sáu trần.

[69] Thiện pháp đường 善法堂: pháp đường ở góc tây nam bên ngoài thành Thiện Kiến, trên đỉnh núi Tu-di là nơi nhóm họp của chúng trời Đao-lợi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10250)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11528)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11927)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12900)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11341)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52697)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21214)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10588)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19096)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12307)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13209)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14271)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15958)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16712)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17403)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11522)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11472)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20260)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18816)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19420)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12101)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12189)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13742)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13861)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15423)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11298)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17018)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11630)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14938)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12892)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14475)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11543)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18240)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11413)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15722)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18784)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18260)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant