Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thất Phật

13 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12930)
Kinh Thất Phật


KINH THẤT PHẬT [1]

Đại Chánh # 0002 - Nguyên bản Hán ngữ

Hán Dịch: Tống Pháp Thiên

Việt dịch:  Thích Tâm Hạnh

Hiệu-chú: Tuệ Sỹ  – Đức Thắng

--- o0o --- 

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng cây Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc [2].

Bấy giờ, có chúng đại Bí-sô[3] khi ôm bát ăn[4], đến đạo tràng Ca-lý-lê, cùng nhau ngồi suy nghĩ[5]:

“Trong thời quá khứđức Phật nào xuất hiện? Giòng họ, danh hiệu, tuổi thọ ngắn dài của các vị ấy như thế nào?”

Sau khi suy nghĩ như vậy, họ hỏi nhau nhưng vẫn không thể biết được.

Bấy giờ, đức Thế Tôn biết các Bí-sô này suy nghĩ sự việc ấy. Ngài rời chỗ ngồi, đến đạo tràng Ca-lý-lê, ngồi kiết già.

Các Bí-sô cúi đầu lạy sát chân Phật, rồi đứng qua một bên, chắp tay cung kính, nhất tâm chiêm ngưỡng Phật.

Thế Tôn hỏi:

“Này các Bí-sô! Các Thầy đang nghĩ về chuyện gì?”

Bí-sô thưa:

“Chúng con suy nghĩ: Trong thời quá khứ có vị Phật nào ra đời, với dòng họ, danh hiệu, tuổi thọ ngắn dài như thế nào, nhưng không ai biết được.”

Phật hỏi các Bí sô:

“Các Thầy muốn biết không?”

Các Bí sô thưa:

“Nay đã đúng lúc, ngưỡng mong Thế Tôn dạy cho chúng con.”

Phật dạy:

“Các Thầy lắng nghe! Ta sẽ nói về việc đó.

“Thời quá khứ, cách đây chín mươi mốt kiếp có Phật Tỳ-bà-thi, là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng chánh giác xuất hiệnthế gian.

 “Cách đây ba mươi mốt kiếp, có Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù[6], là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiệnthế gian.

“Vào kiếp thứ sáu trong hiền kiếpPhật Câu-lưu-tôn, là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiệnthế gian.

“Vào kiếp thứ bảy, có Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiệnthế gian.

“Vào kiếp thứ tám, có Phật Ca-diếp-ba[7], là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện trong thế gian.

“Vào kiếp thứ chín, Ta là Phật Thích-ca Mâu-ni, xuất hiệnthế gian, là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác.

“Trong kiếp quá khứ, Phật Tỳ-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù giảng dạy thi-la[8], là giới luật thanh tịnh, và công hạnh để thành tựu trí tuệ tối thượng.

“Trong hiền kiếp, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp-ba, cũng giảng dạy luật nghi thanh tịnh và pháp thiền định giải thoát. Pháp của Ta giảng dạy cũng như vậy.

“Này các Bí-sô! Phật Tỳ-bà-thi, thời quá khứ, thuộc giòng Sát-đế-lị, phát tâm tịnh tín, mà xuất gia, thành đạo Chánh giác. Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù cũng thuộc giòng Sát-đế-lị. Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp thuộc giòng Bà-la-môn. Ta sinh trong cung vua Tịnh Phạn, dòng Sát-đế-lợi.”

Bấy giờ, để trùng tuyên ý nghĩa này, Thế Tôn bèn nói bài kệ:

Ta nói đời quá khứ,

Vào kiếp chín mươi mốt;

Phật Tỳ-bà-thi

Xuất hiện trong thế gian.

Trong kiếp ba mươi mốt, 

Thi Khí, Tỳ-xá-phù;

Bậc Chánh đẳng giác ấy, 

Thuộc giòng Sát-đế-lị.

Như Lai Câu-lưu-tôn, 

Câu-na-hàm, Ca-diếp;

Cả ba Thế Tôn này,

Đều thuộc Bà-la-môn.

Ta ở cõi Diêm-phù,

Con đức vua Tịnh Phạn;

Tu giác ngộ thành Phật

Thuộc giòng Sát đế lị.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy hãy lắng nghe: Ta lại nói về tộc họ của bảy Phật, Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác. Phật Tỳ-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù, thuộc họ Kiều-trần[9]. Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp-ba, thuộc họ Ca-diếp. Thích-ca Như Lai thuộc họ Cù-đàm.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Như Lai Tỳ-bà-thi,

Thi-khí, Tỳ-xá-phù;

Cả ba vị Phật này,

Đều mang họ Kiều-trần.

Như Lai Câu-lưu-tôn,

Câu-na-hàm, Ca-diếp;

Cả ba vị Phật này,

Đều mang họ Ca-diếp.

Ta ở cõi Diêm-phù,

Sinh trong cung Tịnh Phạn;

Nên mang họ Cù-đàm, 

Xuất gia chứng Bồ-đề.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Ta nói về tuổi thọ dài ngắn của bảy Phật Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác.

“Phật Tỳ-bà-thi, Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện trong thế gian, sống tám vạn tuổi. Phật Thi-khí, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, xuất hiện trong thế gian, sống bảy vạn tuổi. Phật Tỳ-xá-phù, Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện trong thế gian, sống sáu vạn tuổi. Phật Câu-lưu-tôn, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, xuất hiện trong thế gian, sống bốn vạn tuổi. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, xuất hiện trong thế gian, sống ba vạn tuổi. Phật Ca-diếp-ba, Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện trong thế gian, sống hai vạn tuổi. Ta hóa độ chúng sanh trong đời năm trược, sống một trăm tuổi.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ: 

Như Lai Tỳ-bà-thi, 

Thi-khí, Tỳ-xá-phù;

Đức Phật Câu-lưu-tôn, 

Câu-na-hàm, Ca-diếp.

Chư Phật khi ra đời, 

Đều theo tuổi thọ người;

Tám vạn rồi bảy vạn, 

Sáu vạn xuống bốn vạn.

Ba vạn đến hai vạn,

Phật Thích-ca cũng vậy;

Xuất hiện, đời năm trược, 

Loài người thọ trăm tuổi[10].

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Nay Ta nói về tên, danh hiệu cha mẹ, quốc gia, thành phố của bảy vị Phật Như Lai.”

“Phụ vương của Phật Ty-bà-thi tên là Mãn-độ-ma[11], mẹ tên Mãn-độ-ma, kinh thành cũng tên Mãn-độ-ma.

“Phụ vương Thi-khí Như Lai tên A-rô-noa[12], mẹ cũng tên A-rô-noa; kinh thành tên A-rô-phược-đế[13].

“Phụ vương Tỳ-xá-phù Như Lai tên Tô-bát-la-để-đô, mẹ tên Bát-la-bà-phược-để, kinh thành tên A-nỗ-bát-ma[14].

“Cha của Phật Câu-lưu-tôn tên Dã-nghê-dã-na-đa, hiệu Sát-mô-sát-ma, mẹ tên Vĩ-xá-khư, kinh thành tên Sát-ma[15].

“Cha của Phật Câu-na-hàm Mâu-ni tên Dã-nghê-dã-na-đỗ, mẹ tên Ô-đa-la; vua hiệu Thâu-bộ, kinh thành tên Thâu-bà-phược-đế[16].

“Cha của Ca-diếp Như Lai tên Tô-một-ra-hạ-ma, mẹ tên Một-ra-hạ-ma-ngu-bát-đa; vua hiệu Ngật-lý-kế, kinh thành tên Ba-la-nại[17].

“Nay, Ta bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác, phụ vương ta tên Tịnh Phạn, mẹ tên Ma-ha-ma-da; kinh thành tên Ca-tỳ-la.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Bản sinh của chư Phật, 

Tỳ-bà-thi Như Lai;

Cha tên Mãn-độ-ma, 

Mẹ Mãn-độ-ma-đế.

Kinh đô thành quách lớn, 

Cũng tên Mãn độ ma;

Lúc đó nước ấy giàu, 

Nhân dân sống an lạc.

Phật Thi-khí Thế Tôn

Phụ vương A-rô-noa;

A-rô-noa-phược-đế,

Là tên của mẹ Phật.

Thành ngài ở cùng tên, 

A-lỗ-phược-đế;

Nhân dân sống phồn thịnh

Giàu có thường an ổn.

Tỳ-xá-phù Như Lai,

Phụ vương và mẹ tên;

Tô-bát-ra-đế-đô, 

Bát-ra-bà-phược-đế.

Kinh thành của nước ấy, 

Tên A-nỗ-bà-ma.

Thời đó sống an ổn,

Không có các tai hại.

Thế Tôn Câu-lưu-tôn, 

Tên thân phụ của ngài;

Dã-nghê-dã-na-đa, 

Mẹ tên Vĩ-xá-khư.

Vua Sát-mô-sát-ma;

Kinh thành tên Sát-ma;

Nhân dân sống thời ấy, 

Tôn trọng điều hiền thiện.

Câu-na-hàm-mâu-ni, 

Dã-nghê-dã-na-đổ,

Là tên cha của ngài;

Mẹ tên Ô-đa-ra.

Quốc vương hiệu Thâu-bộ, 

Thành Thâu-bà-phược-đế;

Cao rộng thật tráng lệ

Chúng sanh không cực nhọc.

Cha Phật Ca-diếp-ba, 

Tô-một-ra-hạ-ma;

Mẹ tên gọi Một-ra, 

Hạ-ma-ngu-bát-đa.

Quốc vương Ngật-lý-kế, 

Thành đô Ba-la-nại;

Chúng sanh trong thành ấy, 

Ngày đêm sống an ổn.

Nay chỗ sinh của Ta, 

Phụ vương hiệu Tịnh Phạn;

Mẹ Ma-ha Ma-da, 

Thành tên Ca-tỳ-la.

Như trên phân biệt rõ, 

Tên cha mẹ, nước, thành;

Của bảy Phật Như Lai

Chánh đẳng giác như vậy.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Ta nói về đệ tử Thanh văn của bảy vị Phật Như Lai. Đệ tử đại trí của Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Khiếm-noa-để-tả[18], là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Đệ tử đại trí của Thi-khí Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Bộ-tam-bà-phược[19], là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Đệ tử đại trí của Tỳ-xá-phù Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Dã-tâu-đa-la[20], là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Đệ tử đại trí của Câu-lưu-tôn Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Tán-nhĩ-phược[21], là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Đệ tử đại trí của Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Tô-rô-nỗ-đa-la[22], là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Đệ tử đại trí của Ca-diếp-ba Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Bà-ra-đặc-phược-nhạ[23], là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Ta, bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác, có đệ tử đại trí tên Xá-lợi-phất[24] là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Tỳ-bà-thi Như Lai

đệ tử đại trí,

Tên Khiếm-noa-để-tả. 

Phật Thi-khí Thế Tôn,

đệ tử đại trí,

Tên Bộ-tam-bà-phược.

Tỳ-xá-phù Như Lai,

đệ tử đại trí,

Tên Dã-thâu-đa-ra. 

Câu-lưu-tôn Như Lai,

đệ tử đại trí,

Tên là Tán-nhĩ-phược.

Câu-na-hàm Mâu-ni, 

đệ tử đại trí,

Tô-rô-noa-đa-ra. 

Phật Thế Tôn Ca-diếp,

đệ tử đại trí,

Bà-ra-đặc-phược-nhạ.

Nay Ta, Ứng Chánh giác

đệ tử đại trí,

Tên là Xá-lợi-phất. 

Bảy vị Phật tử ấy,

Đều đệ nhất đại trí, 

Ở trong chúng Thanh văn.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Ta nói về đệ tử thị giả của bảy vị Phật Như Lai.

“Thị giả của Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác tên A-thâu-ca[25].

“Thị giả của Thi-khí Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác tên Sát-ma-ca-rô[26].

“Thị giả của Phật Tỳ-xá-phù, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Ô-ba-phiến-đổ[27].

“Thị giả của Phật Câu-lưu-tôn, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Một-đề-du[28].

“Thị giả của Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên To-rô-đế-lý-dã[29].

“Thị giả của Ca-diếp Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Tát-lý-phược mật-đát-la[30].

“Nay Ta, bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác, có thị giả tên A-nan-đà[31].”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Phật tử A-du-ca, 

Và Sát-ma-ca-rô;

Với Ô-ba-phiến-đổ, 

Tôn giả Một-đề-du.

Tô-rô-đế-lý-dã, 

Tát-phược-mật-đát-ra;

Bí-sô A-nan-đà, 

Đều là thị giả Phật.

Thường hành tâm từ bi,

Thành tựu được chánh định;

Thông đạt các pháp tướng,

Đầy đủ đại trí tuệ.

Đa văn lại thông minh,

Là bậc Thầy đại pháp;

Đệ nhất ở trong chúng;

Danh tiếng khắp mười phương,

Trời người đều quy kính;

Sức tinh tấn kiên cố;

Đoạn sạch các phiền não

Chứng quả không sinh diệt.

Thị giả Phật Thế Tôn

Tự thân thường được lợi;

Thành tựu chơn Phật tử, 

Của chư Phật là vậy.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí sô:

“Các Thầy lắng nghe! Ta nói về chúng Thanh văn do bảy Phật Như Lai hóa độ.

“Hội thuyết pháp thứ nhất của Tỳ-bà-thi Như Lai có sáu vạn hai ngàn Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ hai có mười vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ ba có bảy vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Hội thuyết pháp thứ nhất của Thi-khí Như Lai có mười vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ hai có tám mươi ức Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ ba có bảy vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Hội thuyết pháp thứ nhất của Tỳ-xá-phù Như Lai có tám vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ hai có bảy vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ ba có sáu vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Câu-lưu-tôn Như Lai thuyết pháp một hội có bốn vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thuyết pháp một hội có ba vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Phật Ca-diếp thuyết pháp một hội có hai vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Hiện nay, Ta thuyết pháp một hội có một ngàn hai trăm năm mươi Bí-sô đắc quả A-la-hán.”

Thế Tôn lập lại bằng kệ:

Tỳ-bà-thi Như Lai

Thi-khí, Tỳ-xá-phù,

Thế Tôn Câu-lưu-tôn, 

Câu-na-hàm, Ca-diếp,

Thích-ca Mâu-ni

Khi chư Phật ra đời,

Chúng Thanh văn được độ,

Số có bảy mươi ức,

Chín vạn thêm ba ngàn, 

Hai trăm năm mươi người,

Đều chứng A-la-hán, 

Không tái sinh đời sau.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Phật Tỳ-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù, cho đến, nay Ta xuất hiệnthế gian, trụ trì giáo hóa, nêu giảng giáo pháp, giáo hóa, dẫn dắt các hữu tình, về giới hạnh luật nghi, thọ trì y bát, cầu chứng Bồ-đề, không có pháp nào sai khác nhau cả.”

Thế Tôn nói kệ:

Kiếp quá khứ đến nay

Tỳ-bà-thi các Phật;

Chúng Bí-sô được độ,

Thành tựu đại trí tuệ.

Dốc tu nơi Chánh đạo

Các phần pháp Bồ-đề;

Năm căn và năm lực

Bốn niệm, bốn thần túc.

Bảy giác, tám thánh đạo

Cùng với Tam-ma-địa;

Các căn được tịch tĩnh,

Thông đạt nơi pháp tạng.

Khai ngộ các quần sinh

Tuệ mạng được tăng trưởng;

Trong hiền kiếp như vậy, 

Thật là chưa từng có.

Phật dùng trí đại bi,

Tự giácgiác tha;

Đại thần thông uy đức

Được nêu bày như vậy.

Thế Tôn nói kệ xong, cùng các Bí-sô rời chỗ ngồi, trở về vườn Cấp Cô Độc.

Qua đêm ấy, đến sáng sớm hôm sau, các chúng Bí-sô rời thất của mình, đi đến đạo tràng Ca-lý-lê. Họ hỏi nhau về việc các đức Như Lai trong thời gian quá khứ nhập đại Niết-bàn, xa lìa hý luận, đoạn trừ hẳn luân hồi, không còn lỗi lầm. Bậc đại trượng phu như vậy, có đại trí tuệ như vậy, trì giới như vậy, thiền định như vậy, giải thoát như vậy, uy đức như vậy, chủng tộc như vậy, giáng thế lợi sinh, thật ít có, không thể nghĩ bàn.

Thế Tôn biết ý nghĩ của các Bí-sô, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến đạo tràng Ca-lý-lê, ngồi kiết già, hỏi chúng Bí-sô:

“Các Thầy bàn luận về việc gì?”

Các Bí-sô bạch:

“Chúng con nghe nói Đức Như Lai trong quá khứ nhập đại Niết-bàn, xa lìa các hý luận, cắt đứt luân hồi, không còn lỗi lầm. Bậc đại trượng phu như vậy, có trí tuệ như vậy, trì giới như vậy, thiền định như vậy, giải thoát như vậy, uy đức như vậy, chủng tộc như vậy, giáng thế lợi sinh, rất là ít có, không thể nghĩ bàn.”

Phật hỏi:

“Này các Bí-sô! Tại sao các Thầy nói những điều như thế?”

Bí-sô bạch Phật:

“Phật có pháp giới thanh tịnh, chứng Chân giác trí, hiểu biết tất cả, ngưỡng mong giảng giải.”

Phật dạy:

“Này các Bí-sô! Các Thầy lắng nghe, Ta sẽ nói về việc ấy.

“Vào thời quá khứ, có quốc vương lớn hiệu Mãn-độ-ma; Vương phi của vua tên Mãn-độ-ma-đế. Khi ấy, Phật Tỳ-bà-thi từ cung trời Đâu-suất giáng sinh xuống cõi Diêm-phù, nhập vào bụng mẹ, an trú trong thai, phóng ra ánh sáng chiếu khắp các cõi trong thế gian, không còn chỗ tối tăm, đến cả các cảnh giới ác, địa ngục, nơi ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu tới. Ánh sáng của Phật đến đâu, nơi ấy bỗng sáng rực lên. Hữu tình ở những nơi ấy được trông thấy nhau, liền lên tiếng: Tại sao ở đây lại có chúng sanh khác?”

Thế Tôn nói kệ:

Bồ-tát từ Đâu-suất, 

Khi xuống cõi Diêm-phù;

Như mây bay gió thổi,

Nhanh chóng vào thai mẹ.

Thân phóng ánh sáng lớn,

Chiếu rực cõi trời người;

Địa ngục núi Thiết vi

Đều không còn tối tăm.

Tất cả chúng đại tiên

Các cảnh giới cõi Phật;

Đều tập hợp nhau lại, 

Hộ vệ thân mẹ ngài.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các thầy lắng nghe. Khi Đại Bồ-tát ấy từ trời Đâu-suất giáng sinh xuống Diêm-phù, vào thai mẹ, Dạ-xoa Bộ-ma lớn tiếng tuyên bố: Vị Đại Bồ-tát có uy đức lớn, bậc đại trượng phu này, bỏ thân Trời, thân A-tu-la, ở trong thai mẹ để thọ thân người. Lần lượt trời Tứ thiên vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma cho đến các cõi trời Phạm phụ v.v... nghe lời này, đồng xướng lên: Bồ tát giáng thần ở trong thai mẹ, tất cả phải vân tập đến.”

Thế Tôn nói kệ:

Bồ-tát từ Đâu-suất, 

Khi giáng thần thai mẹ;

Đại Dạ-xoa Bộ-ma, 

Tuyên bố: đức Bồ-tát.

Từ bỏ thân cõi trời

Và thân A-tu-la;

An trú trong thai mẹ, 

Để thọ báo thân người.

Tứ thiên, Đao-lợi thiên,

Dạ-ma và Đâu-suất;

Cho đến cõi Phạm thiên

Đều nghe rõ việc này.

Bồ-tát xuống nhân gian

Thân sắc vàng vi diệu;

Chư Thiên đều tập hợp,

Tâm ý rất vui mừng.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe: Khi Đại Bồ-tát ấy từ trời Đâu-suất giáng sinh xuống Diêm-phù, có bốn Đại thiên tử đầy đủ uy đức, thân mặc áo giáp, tay cầm cung đao, hộ vệ Bồ-tát, loài ngườiphi nhân đều không thể gây tổn hại.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Khi Bồ-tát giáng sinh

Đế Thích, trời Đao-lợi;

Sai Tứ đại thiên vương,

Đều đủ đại uy lực.

Thân mang áo giáp vàng, 

Tay cầm cung đao thương,

Luôn luôn hộ vệ ngài;

Loài La-sát, phi nhân.

Không dám gây não hại

Ngài an trú thai mẹ;

Như ở cung điện lớn, 

Thường thọ các diệu lạc.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy từ cõi trời Đâu-suất giáng sinh xuống cõi Diêm-phù, ở trong thai mẹ; thân ngài thanh tịnh tỏa ánh sáng rực rỡ như ngọc Ma-ni; tâm ý mẹ ngài an vui không có phiền não.”

Thế Tôn nói kệ:

Bồ-tát ở trong thai, 

Thanh tịnh không vết nhiễm;

Trong sáng như lưu-ly, 

Quý báu như Ma-ni.

Ánh sáng chiếu thế gian

Như mặt trời không mây;

Thành tựu đệ nhất nghĩa

Xuất sinh trí tối thượng.

Khiến mẹ không ưu não, 

Thường làm các việc thiện;

Hữu tình đều quy ngưỡng

Ngự ngôi Sát-đế-lợi.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy từ trời Đâu-suất giáng sinh xuống cõi Diêm-phù, ở trong thai mẹ; chưa từng nghe người mẹ có dục nhiễm và tham đắm năm trần, sắc v.v...”

Thế Tôn nói kệ:

Bồ-tát ở trong thai, 

Khiến tâm mẹ thanh tịnh;

Không nghe tên nhiễm ô

Xa lìa tội năm dục.

Đoạn trừ gốc tham ái

Không có các khổ não;

Thân tâm thường an ổn

Luôn luôn được an lạc.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy từ trời Đâu-suất giáng sinh xuống cõi Diêm-phù ở trong thai mẹ; người mẹ tự thọ trì năm giới cận sự. Một, không sát sanh. Hai, không trộm cắp. Ba, không dâm dục. Bốn, không nói dối. Năm, không uống rượu. Mẹ Bồ tát sinh ngài nơi hông bên phải. Sau đó mệnh chung, sinh lên cõi trời.”

Thế Tôn nói kệ:

Bồ tát ở trong thai, 

Mẹ ngài giữ năm giới;

Hông phải sinh đồng tử,

Khi sinh không khổ não.

Cũng như trời Đế Thích

Thọ năm dục vi diệu;

Sau đó, khi mạng chung

Liền sanh lên cõi trời.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông phải mẹ, quả đất chấn động. Thân ngài màu sắc như vàng ròng không có uế nhiễm, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả cảnh giới trong thế gian. Những cảnh giới ác, nơi tối tăm như địa ngục bỗng nhiên sáng rực. Những chúng sanh nơi đó cũng trông thấy nhau. Tất cả đều như ngỡ ngàng nói: Tại sao nơi đây lại có chúng sanh khác?”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ tát giáng sinh

Cả quả đất chuyển động;

Thân thể như vàng ròng

Không nhiễm những trần cấu.

Đại thần thông, uy đức,

Chiếu sáng khắp nơi nơi;

Chúng sinh nơi tối tăm,

Đều được nhìn thấy nhau.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, mẹ ngài không mệt nhọc, không ngồi không nằm. Bồ-tát với đại uy đức của bậc đại trượng phu, tâm không mờ tối, chân không đạp đất, có bốn Đại Thiên vương đỡ thân đồng tử.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ-tát giáng sinh

Tâm mẹ không tán loạn;

Không ngồi cũng không nằm,

Tự tạivui thích.

Uy đức đại trượng phu,

Tâm lìa các ám muội;

Tứ thiên bồng chân ngài, 

Chân ngài không đụng đất.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, thân thể ngài thanh tịnh như ngọc lưu-ly quí báu không bị dính những vật bất tịnh như máu, mủ, nước dãi. Cũng như ngọc Ma-ni, như y phục của trời Kiều-thi-ca, tất cả bụi bặm không thể dính vào.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ-tát giáng sinh,

Thân thể ngài thanh tịnh;

Xa lìa những bất tịnh

Như máu mủ nước dãi.

Như y phục vua trời, 

Như ngọc quí Ma-ni;

Tâm sạch thân sáng rực, 

Bụi bặm không dính được.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, có hai vị Thiên tử từ trên hư không, tuôn hai vòi nước một mát, một ấm để tắm rửa đồng tử.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ-tát giáng sinh

Hai vị trời trên không;

Tắm rửa thân đồng tử

Bằng hai vòi nước sạch.

Ấm, mát cho thích nghi,

Biểu thị tròn phước tuệ;

Thành tựu đại vô uý

Xem khắp cả chúng sinh.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải; ngài đủ ba mươi hai tướng, hình dáng đoan nghiêm, mắt thanh tịnh thấy xa mười do-tuần.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ-tát giáng sinh

Các tướng đều đầy đủ;

Mắt trong lại đoan nghiêm,

Thấy xa mười do-tuần.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, nhìn đến cõi trời Đao-lợi. Thiên đế Thích cũng thấy đồng tử này chính là thân Phật, liền cầm lọng trắng che thân đồng tử. Lạnh nóng gió bụi, tất cả các vật xấu không xâm phạm được.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ-tát mới sinh,

Nhìn xa hơn Đao-lợi;

Đế Thích cũng thấy ngài,

Vội cầm lọng trắng lớn.

Đến che thân cho ngài, 

Lạnh nóng gió bụi nắng;

Và các thứ độc hại

Không thể xâm phạm được.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, mẫu hậu, nhũ mẫu và dưỡng mẫu cùng các cung nhân vây quanh để giữ gìn, che chở, tắm rửa, xoa chất thơm, hầu hạ ngài chu toàn.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi đồng tử mới sinh, 

Ba người mẹ nuôi dưỡng;

Cùng với các cung nhân, 

Thường vây quanh bên ngài.

Tắm rửa xoa hương thơm, 

Khiến ngài luôn an ổn;

Hầu cận suốt ngày đêm, 

Không lúc nào rời ngài

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, hình dáng ngài đoan nghiêm đủ ba mươi hai tướng. Vua Mãn-độ-ma liền triệu vị thầy xem tướng đến xem tướng cho đồng tử. Vị Bà-la-môn ấy tâu: Nếu Ngài sống tại gia thì thọ pháp Quán đỉnh, giữ ngôi vị Chuyển luân vương, làm chủ cả thiên hạ, đủ ngàn người con uy đức không sợ hãi. Hàng phục các quân đội khác mà không cần đến binh đao cung kiếm. Nếu Ngài xuất gia tu hành chắc chắn thành bậc Chánh đẳng giác.”

Thế Tôn nói kệ:

Tướng sư Bà-la-môn, 

Xem tướng đồng tử này;

Tâu với vua cha rằng, 

Bậc đủ ba hai tướng.

Như trăng giữa muôn sao, 

Ít có trong thế gian;

Nếu ngài ở cung điện, 

Tất làm vua Chuyển luân.

Thống lĩnh cả bốn châu, 

Sinh một ngàn Thái tử;

Nếu xuất gia tu hành

Liền chứng Vô thượng giác.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, thân ngài màu vàng ròng, tướng mạo đoan nghiêm, như hoa sen mọc trong nước không dính bụi trần. Tất cả mọi loài chiêm ngưỡng ngài không chán. Âm thanh ngài nói ra dịu dàng nhỏ nhẹ thanh nhã lưu loát, như chim Ca-vĩ-la ở Tuyết sơn. Chim này rất thích ăn hoa, hót lên giọng thanh nhã dịu dàng. Chúng sinh nghe tiếng hót đều ưa thích. Âm thanh ngôn ngữ của đồng tử cũng vậy.”

Thế Tôn nói kệ:

Đồng tử lúc mới sinh, 

Thân thể màu vàng ròng;

Cũng như hoa sen hồng, 

Bụi trần không dính được.

Tiếng nói ngài thanh nhã

Như tiếng chim ca-vĩ;

Mọi người khi được nghe, 

Ưa thích không biết chán.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy còn là đồng tử đã xa lìa gian tà dối trá, tâm ý thuần chính, tự giác giác tha thường hành chánh pháp. Mọi người đều tôn trọng phục vụ như Thiên đế Thích tôn kính cha mẹ. Do đó, ngài tên là Tỳ-bà-thi.”

Thế Tôn nói kệ:

Tỳ-bà-thi Như Lai,

Khi còn là đồng tử;

Thông minh đại trí tuệ, 

Xa lìa sự dối trá.

Tự giácgiác tha,

Tu tập theo chính pháp;

Mọi người thường ái kính,

Như vị trời Đế Thích.

Kính phụng dưỡng cha mẹ,

Danh tiếng khắp thế gian;

Nên hiệu Tỳ-bà-thi,

Lợi ích cho chúng sanh.



[1]. Bản Hán: Phật thuyết thất Phật kinh, Tống Pháp Thiên dịch (Đại I, No. 2 , trang 150a-154b). Tham chiếu: Phật thuyết Trường A-hàm kinh, Hậu Tần Hoằng Thỉ Phật-đà-da-xá cọng Trúc Phật Niệm dịch, " Đệ nhất phẩmđại bản kinh đệ nhất," Đại I, No. 1(1), trang 1b-10c.

[2]. No. 2: Kỳ thọ Cấp cô độc viên 祇 樹 給 孤 獨 園 rừng cây Kỳ đà vườn Cấp Cô Độc; No. 1(1): Kỳ thọ hoa lâm khốt, dữ đại Tỳ-kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu 祇 樹 花 林 窟 與 大 比 丘 衆 千 二 百 五 十 人 俱 động Hoa lâm vườn cây Kỳ đà, cùng với chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi.

[3]. Bí-sô 苾 芻, No. 1 (1): Tỳ-Kheo hay Tỷ-khưu 比 丘.

[4]. Nguyên văn: trì bát thực thời 持 鉢 食 時, khi ôm bát ăn; chính xác: “sau khi ăn xong. Xem “Kinh Đại Bản Duyên”, cth. 3.

[5]. No. 2: nghệ Ca- lý-lê đạo tràng cọng tọa tư duy 詣 迦 里 梨 道 場, 共 坐 思 惟, “đến đạo tràng Ca-lý-lê, cùng nhau ngồi suy nghĩ.” No. 1(1): ư khất thực thời tập Hoa lâm đường các cọng nghị ngôn 於 乞 食 後 集 花 林 堂 各 共 議 言 “(Sau) khi khất thực, tụ tậpHoa lâm đường, cùng nhau bàn luận rằng:”

[6]. Tỳ-xá-phù 毘 舍 浮; No. 1(1): Tỳ-xá-bà 毘 舍 婆.

[7]. Ca-diếp ba 迦 葉 波; No. 1(1): Ca-diếp 迦 葉.

[8]. Thi-la 尸 羅, phiên âm Skt. śīla, hay Pāli: sīla .

[9] Kiều-trần 憍 陳, No. 1(1): Câu-lị-nhã 拘 利 若.

[10] Trong đoạn văn nói về tuổi thọ dài ngắn của bảy Phật Như Lai trong bản No 2 này so với bản No 1(1) có sự sai khác như sau: Bản No 2 viết: 爾 時 世 尊 說 此 偈 已, 告 苾 芻 眾 言, 汝 等 諦 聽, 我 今 復 說 七 佛 如 來, 應 等 正 覺 壽 量 長 短 Khi Thế tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí sô: Các Thầy lắng nghe! Nay Ta nói về tuổi thọ dài ngắn của bảy Phật Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác. Phật Tỳ-bà-thi, Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện trong thế gian, sống tám vạn tuổi... cho đến Ta hóa độ chúng sanh trong đời năm trược, sống một trăm tuổi. Thế tôn nói laị bằng bài tụng: 'Như Lai Tỳ-bà-thi, Thi-khí, Tỳ-xá-phù; Đức Phật Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm, Ca-diếp. Chư Phật khi ra đời, Đều theo tuổi thọ người; Tám vạn rồi bảy vạn, Sáu vạn xuống bốn vạn. Ba vạn đến hai vạn, Phật Thích-ca cũng vậy; Xuất hiện đời năm trược, Loài người thọ trăm tuổi.' Còn đoạn văn trong bản No 1(1) nếu đem so sánh với No 2 thì những câu bắt đầu của nó không có những câu này, mà chỉ có một một câu: 'Các ngươi nên biết.' Kế đến nói đến tuồi thọ ngắn dài của bảy Như Lai, một đàng theo bản No 2 thì Phật Tỳ-bà-thi Ứng cúng, Đẳng chánh giác, xuất hiện trong thế gian, thọ tám vạn tuổi, trong khi bản No 1(1) thì Thời đức Phật Tỳ-bà-thi, nhân loại sống tám vạn tuổi, và tiếp cho đến sáu vị Phật kia cũng như vậy. Nhưng đến baì tụng thì trên ý giống nhau, còn lối hành văn diễn tả thì khác nhau xa.

[11] Tên cha, mẹ, thành phố cùng là tên Mãn-độ-ma 滿 度 摩; No. 1(1) Bàn-đầu 盤 頭.

[12] Tên cha A-lỗ-noa 阿 嚕 拏; No. 1(1) Minh tướng 明 相, hay 將 曉 (阿 盧 那 A-lô-na).

[13] Tên mẹ và kinh thành lúc đó là A-rô-phược-đế 阿 嚕 ... 帝 hay A-rô-noa-phược-đế 阿 嚕 拏 縛 帝; No. 2: mẹ là Quang diệu 光 耀, thành Quang tướng 光 相.

[14] Tô-bát-la-để-đô 穌 鉢 囉 底 都, Bát-la-bà-phược-để 鉢 囉 婆 嚩 底, A-nỗ-bát-ma 阿 努 鉢 麼; No. 1(1): Thiện Đăng 善 燈; Xứng Giới 稱 戒; Vô dụ 無 喻.

[15] Cha tên Dã-nghê-dã-na-đa 野 倪 也 那多, mẹ tên Vĩ-xá-khư 尾 舍 佉 , vua vào lúc đó hiệu Sát-mô-sát-ma 殺 謨 殺 摩 , thành Sát-ma 殺 摩; No. 1(1): tên Tự đắc 祀 得; mẹ tên Thiện Chi 善 枝; hiệu An hòa 安 和; thành An hòa 安 和 城.

[16] Cha tên Dã-nghê-dã-na-đổ 野 倪 也 那 睹, tên mẹ Ô-đa-la 烏 多 囉, vua thời đó hiệu Thâu-bộ 輸 部, thành Thâu-bà-phược-đế 輸 婆 縛 帝; No. 1(1):Cha tên Đại Đức 大 德, mẹ Thiện Thắng 善 勝; vua thời đó hiệu Thanh Tịnh 清 淨, đô thành tên là Thanh Tịnh 清 淨 城.

[17] Cha tên Tô-một-ra-hạ-ma 穌 沒 囉 賀 摩, mẹ Một-ra-hạ-ma-ngu-bát-đa 沒 囉 賀 摩 虞 鉢 多, vua thời đó hiệu Ngật-lý-kế 訖 里 計, thành Ba-la-nại 波 羅 奈; No. 1(1): cha tên Phạm Đức 梵 德, mẹ Tài Chủ 財 主; vua thời đó là Cấp-tỳ 汲 毗; thành Ba-la-nại 波 羅 奈 như No. 2.

[18] Khiếm-noa-để-tả 欠 拏 底 寫; No. 1(1): có hai đệ tử Khiên-trà 騫 茶 (hay Khiên-đồ 騫 荼), và Đề-xá 提 舍 (hay Chất-sa 躓 沙).

[19] Bộ-tam-bà-phược 部 三 婆 縛; No. 1(1): A-tỳ-phù 阿 毗 浮, và Tam-bà-bà 三 婆 婆.

[20] Dã-thâu-đa-ra 野 輸 大多 囉 , No. 1(1): Phù-du 扶 遊, và Uất-đa-ma 鬱 多 摩.

[21] Tán-nhĩ-phược 散 爾 縛; No. 1(1): Tát-ni 隡 尼 , và Tỳ-lâu 毗 樓.

[22] Tô-lỗ-noa-đa-la 穌 嚕 拏 多 囉; No. 1(1): Thư-bàn-na 舒 盤 那, và Uất-đa-lâu 鬱 多 樓.

[23] Bà-la-đặc-phược-nhạ 婆 羅 特 縛 惹; No. 1(1): Đề-xá 提 舍, và Bà-la-bà 婆 羅 婆.

[24] Xá-lợi-phất 舍 利 弗; No. 1(1), ngoài Xá-lợi-phất 舍 利 弗 , kể thêm Mục-kiền-liên 目 揵 連.

[25] A-thâu-ca 阿 輸 迦 , No. 1(1): Vô ưu 無 優.

[26] Sát-ma-ca-lỗ 殺 摩 迦 嚕; No. 1(1): Nhẫn Hành 忍 行.

[27] Ô-ba-phiến-đổ 烏 波 扇 睹; No. 1( 1): Tịch Diệt 寂 滅.

[28].  Một-đề-du 沒 提 踰; No. 1(1): Thiện Giác 善 覺. 

[29] Tô-rô-đế-lý-dã 穌 嚕 帝 里 野; No. 1(1): An Hòa 安 和.

[30] Tát-lý-phạ-mật-đát-ra-sa 薩 里 縛 蜜 怛 邋 囉; No. 1(1): Thiện Hữu 善 友.

[31] A-nan-đà 阿 難 陀; No. 1(1) , cùng tên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12496)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28808)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12051)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11444)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12379)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53055)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35490)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12406)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26046)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13319)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14381)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16088)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17585)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13131)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12532)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11609)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14511)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20485)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18995)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19566)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12185)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12316)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13861)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15515)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11404)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17194)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11709)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14556)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13170)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18343)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11941)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11501)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15851)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12884)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18909)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant