Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Đế Thích Sở Vấn

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13671)
Kinh Đế Thích Sở Vấn


KINH ÐẾ THÍCH SỞ VẤN


Đại chánh tân tu số 0015, xem nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch:Ðại sư Pháp Hiền (đời Tống)

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o --- 

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong hang Ðế thích, nơi núi Tỳ đề hê, phía Bắc của xóm làng đại bà la môn, trong vườn Ðông yêm la, thuộc thành Vương xá, nước Ma già đà với đông đủ đại chúng.

Bấy giờ, Thiên chủ Ðế thích nghe Phật ở trong hang Ðế thích, núi Tỳ đề hê, nước Ma già đà, liền bảo Ngũ Kết Càn thát bà vương tử:

–Ngươi có biết không? Ta nghe Phật ở trong hang Ðế thích, núi Tỳ đề hê, nước Ma già đà. Ta muốn cùng ngươi đi đến chỗ Phật để thân cận cúng dường.

Ngũ Kết Càn thát bà vương tử nghe nói như vậy bèn thưa với Ðế thích:

–Rất hay! Thưa Thiên chủ!

Nói xong liền ôm đàn lưu ly bảo-trang-không-hầu đi theo Ðế thích. Lúc đó, các thiên chúng nghe Thiên chủ Ðế thích cùng Ngũ Kết Càn thát bà vương tử phát tâm đi đến chỗ Phật để thân cận cúng dường, nên cũng phát tâm vui thích đi theo đến chỗ Phật để thân cận cúng dường.

Thiên chủ Ðế thích cùng Ngũ Kết Càn thát bà vương tử và các thiên chúng lúc này biến mất ở cõi trời nhanh như lực sĩ co duỗi cánh tay, liền đến núi Tỳ đề hê, nước Ma già đà. Khi đó hòn núi này bỗng có một luồng ánh sáng bao trùm tỏa chiếu khắp cả bốn mặt. Dân chúng quanh vùng thấy luồng ánh sáng này, bèn nói với nhau:

–Núi này tại sao có một đám lửa lớn đang cháy rực cả một vùng giống như núi báu?

Khi ấy, Thiên chủ Ðế thích bảo Ngũ Kết Càn thát bà vương tử:

–Ngươi thấy núi này có màu sắc thù thắng vi diệu không? Ðấy là chỗ đức Phật Thế tôn đang an trú nơi đó, Bốn sự đều thanh tịnh. Vả lại, núi này có những nhà cửa đều do châu báu tạo thành. Người nào ở trong đó đều dứt hết các phiền não, đều chứng Thánh quả, cho đến chư Thiên có oai lực lớn cũng thường ở nơi ấy.

Rồi nói tiếp:

–Cho nên chúng ta khó mà gặp được Ngài, như trên đã nói, để thân cận cúng dường. Nay đã đúng lúc, này Ngũ Kết Càn thát bà vương tử, hãy dùng âm nhạc tấu lên để cúng dường. Vì sao như vậy? Vì trước đây thật khó mà được gặp Ngài.

Càn thát bà Vương tử nghe xong, thưa với Ðế thích:

–Rất hay! Rất hay!

Liền suy nghĩ: “Chư Phật Như lai có đủ thiên nhĩ thông, không xa cũng không gần đều có thể nghe rõ cả”. Nghĩ như vậy rồi bèn khảy đàn lưu ly bảo-trang-không-hầu phát ra bài kệ. Bài kệ ấy như sau:

Như hiền nữ Nhật quang

Hãy xin với cha nàng

Cùng ta làm quyến thuộc

Nên biết hỡi hiền lương!

Ta vốn hâm mộ nàng

Ví như người nóng khát

Nhớ nghĩ chốn trong lành

Như người khát nhớ nước.

Như người bệnh mong thuốc

Người đói mong được ăn

Như voi chúa bị xích

Không thể bước tới được.

Lại như A la hán

Ưa cầu pháp tịch diệt

Nay mong muốn của ta

Ý nghĩa cũng như vậy.

Tham dục thêm phiền não

Nó đâu có chơn thật

Nguyện cầu chẳng như ý

Chịu vô lượng khổ đau.

Ta đã tạo phước đức

Cúng dường A la hán

Các quả báo đạt được

Xin chia sẻ cùng nàng.

Ta mong Nhật quang nữ

Lòng này không đổi dời

Ðế thích chư thiên chủ

Cho tôi được mãn nguyện.

Khi ấy đức Thế tôn ở trong hang Ðế thích, dùng thiên nhĩ thông, từ xa nghe bài hát đó liền dùng thần lực bảo với Ngũ Kết Càn thát bà vương tử:

–Lành thay! Lành thay! Này Càn thát bà vương tử! Ông khéo sử dụng âm nhạc với những dây đàn rung lên, âm thanh vi diệu như tiếng ca êm ái của ngươi, khi ngươi ca hát cũng giống như tiếng đàn. Vì sao vậy? Vì từ lâu phát ra âm nhạc thì trong dây đàn lại phát ra bài kệ tụng. Lại nữa, trong bài kệ tụng ấy nói lên ba loại âm thanh. Ðó là âm thanh yêu thích, âm thanh của loài rồng và âm thanh của bậc A la hán.

Lúc đó Ngũ Kết Càn thát bà vương tử nương vào thần lực của Phật, từ xa nghe tiếng của Ngài, liền bạch Phật:

–Thưa Thế tôn, con nhớ một thời có vua Càn thát bà tên là Ðống Mẫu La, vị vua này có một người con gái tên là Nhật Quang, tâm con rất muốn được làm quyến thuộc với nàng. Mặc dù lúc đó con đã làm đủ cách nhưng vẫn không được như nguyện. Con liền đến trước người con gái ấy hát lên bản nhạc nầy, trong tiếng đàn phát ra một bài kệ, trong bài kệ có ba loại âm thanh. Bạch Thế tôn, khi con ca hát thì ở trong hội Thiện pháp có các thiên chúng, họ cùng nói với nhau:

–Ngũ Kết Càn thát bà vương tử này không thấy, không nghe đức Thế tôn của chúng ta có đủ mười hiệu là: Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn.

Lúc đó con nói với các thiên chúng:

–Các vị chư thiên khéo tán thán công đức của Phật.

Chư thiên đáp:

–Ngũ Kết Càn thát bà vương tử! Chúng tôi tán thán công đức của Phật cùng với người không khác.

Ngũ Kết Càn thát bà vương tử nghe chư thiên nói như vậy bỗng nhiên tỉnh ngộ, đáp:

–Nhơn giả! Nay tôi quy y Phật Thế tôn. Nhân việc ấy tôi hướng về đức Phật, hát lên bản nhạc này.

Bấy giờ, Thiên chủ Ðế thích suy nghĩ như vầy: “Nay Ngũ Kết Càn thát bà vương tử này căn duyên đã thuần thục, nhưng chưa đến trước đức Phật để đích thân cúng dường”. Nghĩ như vậy xong, liền bảo Ngũ Kết Càn thát bà vương tử:

–Ngươi hãy đem lời nói của ta đến chỗ đức Phật, đầu mặt lạy sát chân Ngài, như lời ta mà thưa: “Thiên chủ Ðế thích cúi đầu lạy dưới hai chân, thăm hỏi sức khỏe của Thế tôn, có ít bệnh, ít phiền, đi lại nhẹ nhàng, khí lực an ổn, tới lui ung dung chăng? Con nay cùng với thiên chúng trời Ðao lợi này muốn đến gặp Phật để thân cận cúng dường, nghe lời Phật dạy”.

Ngũ Kết Càn thát bà vương tử nghe xong, thưa với Ðế thích:

–Rất hay, thưa Thiên chủ!

Nói như vậy rồi liền đi đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, đứng qua một bên, bạch với Phật:

–Thưa Thế tôn! Thiên chủ Ðế thích cùng với thiên chúng trời Ðao lợi sai con đến đây lạy dưới hai chân Phật, thăm hỏi Thế tôn có ít bệnh, ít phiền, đi lại nhẹ nhàng, khí lực an ổn, tới lui ung dung chăng? Chúng con hôm nay muốn đến gặp Phật để thân cận cúng dường, cho nên sai con đến đây để nghe Phật chỉ dạy.

Phật liền đáp:

–Ông hãy trở lại nói với Ðế thích và thiên chúng ấy: “Nay đã đúng lúc”.

Ngũ Kết Càn thát bà vương tử vâng theo thánh chỉ của Phật, trở về chỗ Ðế thích truyền lại lời dạy của Thế tôn: “Nay đã đúng lúc”.

Bấy giờ, Ðế thích và thiên chúng Ðao lợi liền đến chỗ Phật, đến nơi, lạy dưới hai chân Phật, đứng qua một bên. Lúc đó Thiên chủ liền nghĩ: “Hang Ðế thích này có vẻ chật hẹp, còn thiên chúng thì nhiều vô số, làm sao mà ngồi?”. Phật biết ý nghĩ này, liền dùng thần lực khiến cho cái hang trở nên rộng rãi, có thể chứa hết thiên chúng mà không trở ngại. Thiên chủ Ðế thích và các thiên chúng đều đảnh lễ Phật, theo thứ lớp mà ngồi. Tất cả đã ngồi yên rồi, Thiên chủ Ðế thích chấp tay bạch Phật:

–Bạch Thế tôn! Ðã lâu chúng con muốn đến yết kiến Phật và muốn nghe chánh pháp. Bạch Thế tôn, con nghĩ có một thời Phật ở nước Xá vệ, rừng cây Kỳ đà, vườn Cấp cô độc, ngài nhập Tam muội hỏa giới. Lúc đó, con đang ở trong cung Tỳ sa môn, thấy trong cung có một phu nhơn tên là Diệu Tý. Phu nhơn này thấy Phật nhập Tam muội hỏa giới tam muội thì chấp tay cung kính chuyên tâm niệm Phật. Con thấy Thế tôn chưa ra khỏi tam muội, nên bảo với Diệu Tý: “Chờ Phật Thế tôn ra khỏi tam muội thì thưa: Ta chí thành hỏi thăm sức khỏe của Phật có ít bệnh, ít phiền, đi lại nhẹ nhàng, khí lực an ổn, tới lui ung dung chăng? Con lại bảo: “Hãy chờ Phật xuất định, thưa lại lời chí thành của ta, đừng quên”. Bạch Thế tôn, việc này có đúng như vậy chăng? Ðức Phật nói: “Này Ðế thích! Việc này quả đúng như vậy. Vị phu nhơn kia đã thay thế ông cung kính hỏi thăm sức khỏe của ta”. Phật lại bảo: “Này Thiên chủ! Ta ở trong tam muội cũng có nghe ngươi nói, sau đó không bao lâu ta liền xuất định”.

Ðế thích bạch Phật:

–Thưa Thế tôn, xưa kia con từng được nghe có Phật Như lai Chánh đẳng Chánh giác xuất hiệnthế gian tạo lợi ích lớn, dùng đại phương tiện, tùy theo từng loài mà dẫn dắt, hoặc ẩn nơi tướng người, hoặc hiện làm thân trời. Nay con tự biết Phật ở thế gian tạo lợi ích lớn, dùng phương tiện khéo léo, tùy loài mà dẫn dắt, hoặc ẩn, hoặc hiện. Bạch Thế tôn! Những vị Thanh văn theo Phật xuất gia, tu trì phạm hạnh, sau khi mạng chung, sanh lên trời Ðao lợi, các vị thiên nhơn ấy vui mừng vì được ba việc, đó là: thọ mạng, sắc tướng và danh xưng. Bạch Thế tôn! Xưa có một Thích nữ tên là Mật Hạnh theo Phật xuất gia, giữ gìn phạm hạnh, thường nhàm chán thân nữ, cầu tướng nam tử. Sau khi mạng chung, sanh lên trời Ðao lợi làm con của con tên là Mật Hạnh, có đầy đủ oai lực, đúng là vị đại trượng phu. Bạch Thế tôn! Lại có ba vị Bí sô tu hạnh Thanh văn nhưng chưa đoạn trừ được tâm tham dục, sau khi mạng chung sanh lên cõi trời, làm con của vị Càn thát bà thấp nhất, thường đến chỗ thiên tử Mật Hạnh để hầu hạ. Khi ấy vị trời Mật Hạnh hướng về Càn thát bà thấp kém nói bài kệ:

Xưa kia ta thân nữ

Ðủ trí tên Mật hạnh

Chán nữ cầu tướng nam

Thường cúng Phật Pháp Tăng.

Khi ấy thấy ba người

Ðang tu hạnh Thanh văn

Nay sanh vào hạ tộc

Theo ta để hầu hạ.

Các ngươi nay nên biết

Ta nói thật các ngươi

Xưa các ngươi làm người

Tứ sự đều đầy đủ.

Không giữ giới cấm Phật

Nay ôm lòng xấu hổ

Rõ tâm là chánh pháp

Chỉ kẻ trí mới biết.

Xưa ta cùng các ngươi 

Gần Phật theo chánh pháp

Tín tâm trì giới Phật 

cúng dường thánh chúng.

Nhờ ta hành chánh hạnh

Ðược làm con Ðế thích

Vị trời đại oai lực

Tự biết tên Mật Hạnh.

Ở cung điện thù thắng

Chuyển nữ thành nam tướng

Ngươi con Càn thát bà

Theo Phật giữ phạm hạnh.

Nghe pháp Phật tối thượng

Trở lại hầu hạ người

Ta ở trong cõi trời

Chưa thấy việc như vậy.

Tu trì hạnh Thanh văn,

Mà sanh nhà hạ tiện

Ngươi con Càn thát bà

Chịu Mật hạnh giáo hóa

Chỗ thọ sanh các ngươi

Chẳng phải đệ tử Phật.

Càn thát bà tử thưa:

“Trời đã nói sự thật

Chúng tôitham dục

Ðọa vào Càn thát bà.

Tôi nay nguyện tinh tấn

Chỉ nhớ chánh pháp Phật

Biết tham dục là sai

Ðoạn trừ tâm tham dục

Tham bị phiền não trói

Còn mạnh hơn ma quân.

Bỏ pháp Phật chơn thật

Nên không sanh cõi trời.

Ðế thích cùng Phạm vương

Ngồi trong hội Thiện pháp

Xem chư thiên thắng hạnh

Qua lại ở cõi trời

Thấy tôi sanh hạ tộc

Qua lại ở cõi trời

Tôi do hành bất chánh

Nên không được thắng quả”.

Khi ấy trời Mật hạnh

Thưa cha Ðế thích:

“Vua cha nay nên biết

Phật của con tối thắng

Xuất hiệnthế gian

Khéo hàng phục ma quân.

Tên Thích Ca Mâu Ni

Ba Càn thát bà này

Là con của đức Phật

Vì quên mất chánh niệm

Nên đọa Càn thát bà

Nhưng trong ba vị kia

Một vị không chánh tri

Hai vị theo chánh đạo

Thường hướng Phật Bồ đề

Thực hành theo chánh pháp

Kiến thức của Thanh văn

Không có ai hơn được.

Họ xa lìa ái dục

Ðoạn trừ các phiền não

Chỉ nhớ Phật Thế tôn

Không còn sanh các tưởng.

Pháp nào chưa liễu ngộ

Cả hai ắt chánh tri

Sẽ được quả báo tốt

Sanh lên trời Phạm thiên”.

Bạch Thế tôn! Khi nghe thiên tử Mật Hạnh nói kệ xong, đối với việc ấy lòng con vẫn còn phân vân, cho nên con đến chỗ Phật muốn đích thân thưa hỏi, mong Phật rủ lòng thương xót dạy bảo.

Bấy giờ đức Thế tôn suy nghĩ: “Thiên chủ Ðế thích ở trong cõi sinh tử không hề biếng nhác, không phế bỏ, không bị cấu nhiễm, nếu có hỏi điều gì là do không biết chứ không phải là chằm để quấy nhiễu ta. Nếu vị này hỏi ta sẽ trả lời”. Nghĩ như vậy xong liền nói bài kệ bảo Ðế thích:

Ðế thích nay nên biết

Chỗ vui trong lòng ông

Muốn hỏi nghĩa lý nào

Cứ hỏi ta sẽ nói.

Thiên chủ Ðế thích liền nói kệ bạch Thế tôn:

Nay mong Phật chấp thuận

Như lòng con vui sướng

Con nay xin thưa hỏi

Xin Phật hãy chỉ dạy.

Thiên chủ Ðế thích nói kệ xong bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Các hàng trời, người, A tu la, Càn thát bà cùng với các hàng phàm phu khác vì sao mà bị phiền não?

Phật dạy:

–Do thương ghét mà bị phiền não. Này Thiên chủ Ðế thích! Những hàng trời, người, A tu la, Càn thát bà cho đến các chúng sanh khác nếu thường hay suy nghĩ: “Than ôi! Tự ta đối với người khác trước hết đừng có xâm hại, cũng đừng oán thù, không tranh giành chống đối, không kiện cáo, tranh hơn thua, lại cũng đừng lôi kéo lẫn nhau. Tại sao ta lại làm những việc như vậy?” Này Thiên chủ! Những việc như thế là do lòng thương ghét nổi lên nên mới sanh ra phiền não.

Ðế thích thưa:

–Bạch Thế tôn! Ðúng vậy, đúng vậy, như lời Phật dạy, nay con nhờ Phật biết được nghĩa nầy. Vì thương ghét nên có phiền não, phải đoạn trừ mê lầm thì trong lòng mới an vui.

Bấy giờ Thiên chủ Ðế thích được nghe Phật dạy, hoan hỷ tin vâng, lại bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Phiền não thương ghét lấy gì làm nhơn, do đâu tập khởi, vì sao sanh ra, lấy gì làm duyên, do đâu mà có, do đâu mà không?

Phật dạy:

–Này Thiên chủ! Phiền não thương ghét do kẻ oán người thân làm nhơn, do kẻ oán người thân tập khởi, từ kẻ oán người thân sanh ra, lấy oán thân làm duyên, do có oán thân mà có phiền não thương ghét. Nếu không có oán, thân sẽ không có thương ghét.

Ðế thích bạch Phật:

–Ðúng vậy, đúng vậy, như Phật đã dạy, nay con nhờ Phật hiểu được nghĩa này, phiền não thương ghét lấy oán, thân làm nhơn. Nếu khôngoán thân thì cũng không có thương ghét.

Lại bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Oán thân nhơn đâu mà có, từ đâu tập khởi, do đâu sanh ra, lấy gì làm duyên, tại sao lại có, làm sao để không có?

Phật dạy:

–Này Ðế thích, do dục làm nhơn, vì dục tập khởi, do dục sanh ra, do dục mà có oán thân. Nếu không có dục sẽ không có oán thân.

Ðế thích bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Ðúng vậy, đúng vậy, như Phật đã dạy, nhơn có dục mà có oán thân.

Lại bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Nhưng dục này nhơn đâu mà có, do đâu tập khởi, do đâu phát sanh, dựa đâu làm duyên, tại sao lại có, làm sao để không có?

Phật dạy:

–Này Ðế thích! Dục do mê lầm mà có, từ mê lầm tập khởi, do mê lầm sanh, nương mê lầm làm duyên, nhơn mê lầm mà có, nếu khôngmê lầm sẽ không có dục.

Ðế thích bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Ðúng vậy, đúng vậy, như Phật đã dạy, do mê lầm nên có dục.

Lại bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Mê lầm do nhân gì, tập gì, sanh gì, duyên gì mà có mê lầm này. Do đâu có mê lầm, do đâu không có?

Phật bảo Ðế thích:

–Lấy hư vọng làm nhân, từ hư vọng tập khởi, do hư vọng phát sanh, nương hư vọng làm duyên, do có hư vọng nên có mê lầm, do có mê lầm nên có dục, do có dục nên có oán thân, do có oán thân nên có thương ghét, do có thương ghét nên mới có dao kiếm đánh nhau, tố tụng, tranh giành, trong lòng sanh ra quanh co, khúc khuỷu, lời nói không thành thật, khởi lên muôn ngàn các thứ nghiệp xấu, là pháp bất thiện như vậy, dẫn đến sự tập khởi của khối đại khổ được tích tụ. Này Thiên chủ! Nếu khônghư vọng liền không có mê lầm, nếu khôngmê lầm liền không có tham dục, nếu khôngtham dục liền không có oán thân sanh ra, oán thân không có, thương ghét tự trừ. Vì không có thương ghét thì dao kiếm đánh nhau, tố tụng đấu tranh, trong lòng quanh co khúc khuỷu, lời nói không thành thật, các thứ nghiệp xấu là pháp bất thiện đều được tiêu trừ; như thế là toàn bộ khối khổ lớn được tiêu diệt.

Ðế thích bạch Phật:

–Ðúng vậy, đúng vậy, như Phật đã dạy, nhơn mê lầm mà có hư vọng.

Lại bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Pháp hư vọng lấy pháp gì để diệt trừ, cho đến các Bí sô phải thực hành như thế nào?

Phật dạy:

–Này Thiên chủ! Diệt trừ hư vọng đó là Bát chánh đạo. Bát chánh đạochánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Nhờ tám pháp này diệt trừ được hư vọng. Nếu các Bí sô thực hành pháp này thì gọi là thực hành các pháp diệt trừ hư vọng.

Ðế thích bạch Phật:

–Ðúng vậy, đúng vậy, thưa Thế tôn! Diệt trừ hư vọng đó là pháp Bát chánh đạo.

Ðế thích lại bạch Phật:

–Bạch Thế tôn! Pháp diệt trừ hư vọng ấy, nếu Bí sô thực hành đối với Biệt giải thoát có mấy pháp?

Phật dạy:

–Này Thiên chủ! Pháp hư vọng này đối với Biệt giải thoát có sáu pháp. Những gì là sáu? Ðó là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi biết vị, thân cảm xúc, ý phân biệt pháp. Này Thiên chủ! Mắt xem sắc có hai thứ, đó là sắc nên xem và sắc không nên xem. Thứ không nên xem là đối với tất cả cảnh giới của pháp ô nhiễm thì không nên xem. Thứ nên xem là đối với các cảnh giới của pháp thiện thì nên quán sát. Cũng vậy, mắt xem cảnh sắc, cho đến ý phân biệt pháp cũng như thế.

–Bạch Thế tôn! Nay con nhờ Phật biết được nghĩa này. Những điều không nên xem là nếu mắt nhìn cảnh thuộc pháp bất thiện, hễ nhìn nó liền tăng trưởng pháp ô nhiễm, tổn hại pháp lành. Còn những điều nên xem là mắt thấy các cảnh thuộc pháp thiện, hễ thấy nó liền tăng trưởng pháp thiện, làm tổn giảm pháp ô nhiễm; cho đến ý phân biệt pháp trần cũng giống như vậy. Bạch Thế tôn! Nay con nhờ Phật nghe được pháp này rồi, mãn nguyện sung sướng, đoạn trừ mê lầm.

Lại bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Nếu lại có Bí sô muốn đoạn trừ hư vọng phải đoạn bao nhiêu pháp, hành bao nhiêu pháp?

Phật dạy:

–Này Thiên chủ! Nếu có Bí sô muốn diệt trừ pháp hư vọng cần phải đoạn ba pháp, hành ba pháp. Một là mê lầm, hai là mong cầu, ba là lời nói vô nghĩa. Ba pháp này cũng có thể thực hành, cũng có thể không thực hành. Nói không thực hành tức là đối với ba pháp bất thiện phải đoạn trừ không thực hành, nếu thực hành pháp bất thiện sẽ tăng trưởng, pháp thiện sẽ tổn giảm. Còn nói nên thực hành tức là đối với ba pháp bất thiện siêng năng đoạn trừ, như vậy pháp bất thiện được tổn giảm, pháp thiện được tăng trưởng.

Ðế thích bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Ðúng vậy, đúng vậy, nay con nhờ Phật được hiểu nghĩa này, đó là ba pháp: mê lầm, mong cầu và nói lời vô nghĩa. Nếu thực hành nó thì pháp thiện bị tổn giảm, pháp bất thiện được tăng trưởng. Nếu các Bí sô đối với ba pháp này siêng năng đoạn trừ thì pháp bất thiện sẽ tổn giảm, pháp thiện được tăng trưởng.

Lại bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Nếu có Bí sô thực hành pháp diệt trừ hư vọng, có mấy loại thân?

Phật dạy:

–Này Thiên chủ! Nếu có Bí sô thực hành pháp diệt trừ hư vọng thì có ba loại thân. Ba loại thân đó là: thân vui thích, thân khổ não và thân xả. Thân vui thíchhai nghĩa, đó là nên thực hành và không nên thực hành. Nên thực hành là các pháp thiện, không nên thực hành là các pháp bất thiện. Thân khổ não và thân xả cũng lại như vậy.

Ðế thích bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Ðúng vậy, đúng vậy, nay con nhờ Phật nên được hiểu nghĩa này. Nếu các Bí sô thực hành pháp diệt trừ hư vọng, đối với thân vui thích, thân khổ não và thân xả, ba loại thân này nên thực hành theo các pháp thiện, đừng nên thực hành theo các pháp bất thiện.

Bấy giờ, Ðế thích lại bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Tất cả chúng sanh, sự ưa muốn, nhớ nghĩ và sắc tướng có giống nhau không?

Phật dạy:

–Chẳng giống nhau. Này thiên vương! Tất cả chúng sanh không đồng một ưa muốn, không đồng một nhớ nghĩ, không đồng một sắc tướng. Này Thiên chủ, tất cả chúng sanh tuy mỗi mỗi đều ở trong cảnh giới của mình, nhưng không biết các cảnh giới sai biệt. Vì không biết các cảnh giới sai biệt cho nên mới đi vào con đường tối tăm, trở lại chấp pháp si mê cho đó là chơn thật. Các chúng sanh này không biết các cõi muôn ngàn sai biệt, điều họ biết được chỉ là cảnh giới tối tăm. Tuy có hiểu biết nhưng cũng thường đi vào con đường tăm tối, chấp chặt lấy si mê mà cho là chơn thật.

Ðế thích bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Ðúng vậy, đúng vậy, như Phật đã dạy, nay con nhờ Phật nên biết được nghĩa này: tất cả chúng sanh không đồng một ưa muốn, không đồng một nhớ nghĩ, không đồng một sắc tướng. Do vì các chúng sanh ấy không biết sự sai biệt cho nên mới chấp sự si ám cho là chơn thật.

Bấy giờ Ðế thích lại bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Tất cả Sa môn, Bà la môn đều đạt được cứu cánhphạm hạnh thanh tịnh chăng?

Phật dạy:

–Chẳng phải như vậy. Ðiều này có hai nghĩa. Này Thiên chủ! Nếu các Sa môn, Bà la môn nào không thể tận trừ ái dục, chắc chắn không thể nào đạt được cứu cánhphạm hạnh thanh tịnh. Còn nếu Sa môn, Bà la môn nào có thể đoạn trừ được ái dục, liền chứng được Vô thượng giải thoát, tâm chánh giải thoát, kẻ ấy mới gọi là đạt được cứu cánhphạm hạnh thanh tịnh.

Ðế thích bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Ðúng vậy, đúng vậy, như lời Phật dạy, nay con nhờ Phật hiểu được nghĩa này: nếu các Sa môn Bà la môn không thể tận trừ ái dục, kẻ ấy quyết định không thể đạt được cứu cánhphạm hạnh thanh tịnh. Còn nếu các Sa môn Bà la môn nào đã tận trừ được ái dục thì quyết định đạt được Vô thượng giải thoát, tâm chánh giải thoát, kẻ ấy mới gọi là đạt được cứu cánhphạm hạnh thanh tịnh.

Bấy giờ Ðế thích lại bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Nay con làm sao vĩnh viễn xa lìa bệnh của các kiến chấp, làm sao cho nó không còn sanh ra nữa? Bệnh của các kiến chấp ấy từ tâm thức sanh ra, vậy tâm thức này của con lại phải làm thế nào? Con tuy hỏi Phật về ý nghĩa các thứ nhưng tại sao con vẫn không đạt được Thánh quả, được quả Ứng chánh đẳng giác của Phật Như lai? Cúi mong đức Thế tôn vì con đoạn trừ mê lầm là bệnh gốc của các kiến chấp.

Phật dạy:

–Này Thiên chủ! Ông có biết không, ở thời trước, có Sa môn, Bà la môn cũng hỏi về ý nghĩa này.

Ðế thích bạch Phật:

–Nay con nhớ lại trong một thời có chư thiên với đại oai lực nhóm họp ở hội Thiện pháp, cung trời Ðao lợi.

Khi ấy, trong hội có các thiên nhơn vì không biết pháp nên vội muốn thành Phật. Vì có ý như vậy nên họ bạch với Thế tôn. Thế tôn quán sát thấy họ là những người ngu si cho nên Thế tôn đã không thọ ký cho họ. Chư thiên ấy vì không được mãn nguyện, tâm có sai biệt, nên từ chỗ ngồi đứng dậy, mỗi người đều trở về chỗ ở của mình. Chỗ ở của họ chẳng hiện ra nên liền bị đọa lạc. Lúc đó chư thiên này vì bị đọa lạc nên hết sức sợ hãi, tâm sanh mê lầm, ai cũng nghĩ như vầy: Chỗ ở của mình không hiện ra, chắc chắn phải bị đọa lạc. Nếu ta thấy được vị Sa môn Bà la môn nào liền đến để thưa hỏi:

–Ông có phải là Như lai, Ứng cúng chánh đẳng chánh giác chăng?

Bấy giờ, chư thiên kia hoặc có người thấy con một mình đi kinh hành, đến chỗ con hỏi:

–Này nhơn giả! Ngài là ai?

Con đáp:

–Tôi là Thiên chủ Ðế Thích.

Khi ấy chư thiên kia trong lòng rất khổ não, thưa:

–Này Thiên chủ! Há ngài không thấy tôi đang bị khổ não sao? Vì tôi hướng đến Phật để hỏi pháp nhưng không thể hỏi được, muốn quy y mà không quy y được, vì dùng tâm sai biệt nên liền trở về chỗ ở của mình, chỗ ở của mình lại chẳng hiện ra, chắc chắn biết mình đã bị đọa lạc cho nên khổ não, mong được cứu hộ. Này Thiên chủ! Kể từ ngày hôm nay, tôi thệ nguyện quy y Phật làm đệ tử Thanh văn.

Khi ấy con liền nói kệ đáp vị thiên kia:

Các ngươi khởi niệm tà

Nói ra lời bất chánh

Tâm sai biệt cầu Phật

Do đó chịu khổ mãi.

Hoặc thấy vị Sa môn

Và các Bà la môn

Kinh hành liền thưa hỏi:

“Ngài là chánh giác chăng?

Nếu là bậc chánh giác 

Con quy y cúng dường”.

Con liền hỏi vị kia

Làm sao để cúng dường

Chỗ hỏi không thể biết

Phật chánh đạo như thật.

Khi ấy thiên chúng kia

Những dục vọng trong lòng

Tâm và tâm sở pháp

Mê lầmphân biệt.

Con biết tâm pháp họ

Như Thế tôn đã dạy

Con đã nói với họ

Ở trong ba cõi này.

Chỉ có Phật Thế tôn 

Là Ðại sư thế gian

Hàng phục đại ma quân

Ðộ các loài hữu tình.

Ðến bờ giác Niết bàn

Như lai đại giác tôn

thiên thượng, nhơn gian

Không có ai bằng Ngài.

Ðại trượng phu vô úy

Khéo đoạn bệnh tham ái,

Như lai Ðại nhật tôn

Ngươi nay cúi đầu lạy.

Khi Thiên chủ Ðế thích nói việc này xong, Phật lại bảo:

–Này Thiên chủ! Ông có thể biết được việc quá khứ này, đó là lợi Phân biệt và lợi vui thích.

Ðế thích bạch Phật:

–Bạch Thế tôn! Nay con nhớ lại một thuở xưa, chư thiênA tu la cùng đánh nhau, thiên nhơn thắng trận, A tu la bại trận. Con suy nghĩ như vầy: “Những điều vui thích của thiên nhơn và của A tu la, nay con một mình được sự vui thích, nhơn được cái lợi vui thích như vậy, thì suốt cả cuộc đời này cần phải tranh giành, đao binh chém giết lẫn nhau, đó gọi là cái lợi của sự vui thích. Còn lợi phân biệt là suốt cả đời này không có tranh giành cho đến việc dùng đao binh tàn hại lẫn nhau, đó là lợi phân biệt”.

Ðế thích lại thưa:

–Bạch Thế tôn! Nay con nhờ Phật nghe được chánh pháp này, lại càng thêm thâm tín, phát khởi hạnh nguyện. Nguyện cho con sau khi mạng chung, nếu sanh ở nhơn gian thì được sanh vào nhà giàu có, sang trọng, tiền bạc lúa thóc vô kể, chứa nhiều châu báu, xe cộ đầy đủ, quyến thuộc đông đúc, mọi thứ chẳng thiếu vật gì. Nguyện cho con sẽ sanh vào nhà giàu có như vậy, ở thai trí tuệ, thân thể tròn đầy, sắc tướng đẹp đẽ, ăn uống thượng vị, tôn quý tự tại, thọ mạng lâu dài, khởi sanh chánh tín, theo Phật xuất gia, cạo bỏ râu tóc mặc áo cà sa làm Bí sô, thường giữ phạm hạnh không có thiếu sót sai phạm, chứng quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, cho đến đạt được biên vực tận cùng của sự khổ. Bạch Thế tôn! Con lại nghe nói có cõi trời Sắc cứu cánh, mong cho con khi mạng chung ở nhơn gian được sanh lên cõi trời ấy.

Phật dạy:

–Này Thiên chủ! Lành thay, lành thay, này Thiên chủ. Như lời nguyện của ông, do nhân duyên gì mà có được sự chứng quả thù thắng ấy?

Ðế thích bạch Phật:

–Thưa Thế tôn! Con không có nguyên nhơn gì đặc biệt, chỉ nhờ theo Phật nghe chánh phápphát khởi đức tin sâu xa, nhờ nguyện lực ấy mà chứng được quả như vậy. Bạch Thế tôn! Nay con ở trong hội này được nghe chánh pháp, nhờ pháp lực ấy nên được tăng trưởng trí tuệ, lại được tăng thêm tuổi thọ.

Khi ấy, Ðế thích phát nguyện này xong, xa lìa mọi thứ cấu nhiễm, được pháp nhãn thanh tịnh, đồng thời có tám vạn người trời cũng được pháp nhãn thanh tịnh. Bấy giờ Thiên vương Ðế thích nghe pháp, thấy pháp, có thể thông tỏ an trụ vững chắc nơi pháp, đoạn các mê lầm. Chứng như vậy xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên phải, chấp tay đảnh lễ bạch Phật:

–Bạch Thế tôn! Con được giải thoát! Con được giải thoát! Kể từ hôm nay cho đến trọn đời con xin quy y Phật, Pháp và Tăng, thọ trì giới Ưu bà tắc.

Bấy giờ Thiên chủ Ðế thích đang ở trước đức Phật quay lại nói với Ngũ Kết Càn thát bà vương tử:

–Nhờ ngươi mà ngày nay ta được hoan hỷ, lợi lạc và nhiều người cũng được lợi ích. Nhờ ngươi đã đến trước dùng âm thanh vi diệu này cúng dường Phật khiến cho chúng ta được nghe pháp, chứng quả. Chờ ta trở về cung sẽ khiến cho ngươi được mãn nguyện.

Khi ấy, Thiên chủ Ðế thích lại bảo Thiên chúng cõi Ðao lợi:

–Này các nhơn giả! Các ngươi hãy dùng phạm âm, ba lần xin quy y đức Phật. Vì sao như vậy? Vì ngày nay đức Phật Thế tôn đã đắc Phạm trụ, tịch tĩnh, Niết bàn.

Bấy giờ Thiên chúng đi theo Ðế Thích, đều nhiễu quanh chỗ Phật ba vòng đầu mặt lạy sát chân Phật, đứng trước đức Phật, khác miệng cùng lời bằng phạm âm, ba lần quy y Phật:

–Na mô na mạc, tát đa tát muội, bà nga phạ đế, đát tha nga đa da, a ra ha đế, tam miệu tam một đà dã (Thành kính đảnh lễ bậc Nhất thiết trí, Thế tôn, A la hán, Chánh đẳng Chánh giác).

Thiên chủ Ðế thích và các thiên chúng ấy ba lần quy y Phật xong cùng với Ngũ Kết Càn thát bà vương tử... biến mất khỏi hội chúng, trở về cõi trời.

Bấy giờ Ðại phạm Thiên vương, chủ cõi Ta bà, ngày đã qua, đêm đến, đi tới chỗ Phật, thân phát ra ánh sáng rực rỡ, chiếu sáng hang Ðế Thích, đến trước đức Phật, lạy dưới hai chân Ngài, chấp tay đảnh lễ, nói kệ:

Ðế thích được nhiều lợi.

Theo Phật hỏi chánh pháp.

Phật dùng vi diệu âm.

Ðoạn trừ hết mê lầm.

Phạm vương nói kệ xong, bạch Phật:

–Bạch Thế tôn! Khi Phật nói chánh pháp, Thiên chủ Ðế thích xa lìa mọi thứ cấu nhiễm, được con mắt pháp thanh tịnh, tám vạn trời người cũng được con mắt pháp thanh tịnh.

Phật dạy:

–Ðúng vậy, đúng vậy!

Khi ấy, Ðại phạm thiên vương, chủ cõi Ta bà, nghe Phật nói xong, hoan hỷ tin vâng, lạy dưới chân Phật rồi ẩn thân biến mất, trở về cõi trời.

Bấy giờ đức Thế Tôn, lúc đêm vừa tàn, đến chỗ chúng Bí sô, đi vòng quanh rồi an tọa, bảo các Bí sô:

–Ngày đã qua, khoảng nửa đêm, Ðại phạm thiên vương, chủ cõi Ta bà đi đến chỗ ta, lạy dưới chân xong, chấp tay cung kính nói kệ:

Ðế thích được nhiều lợi.

Theo Phật hỏi chánh pháp.

Phật dùng vi diệu âm.

Ðoạn trừ hết mê lầm.

Lại nói với ta:

–Thiên chủ Ðế thích khi nghe chánh pháp, được mắt pháp thanh tịnh, và tám vạn trời người cũng được mắt pháp thanh tịnh.

Ta liền nói:

–Ðúng vậy, đúng vậy!

Khi ấy, Phạm vương nghe lời ta nói hoan hỷ tin vâng, lạy dưới chân ta rồi, ẩn thân biến mất, trở về cõi trời.

Bấy giờ các Bí sô nghe Phật nói pháp này xong, thảy đều hoan hỷ, lạy Phật lui ra. 

PHẬT NÓI KINH ÐẾ THÍCH SỞ VẤN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11594)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12534)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17940)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11698)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9915)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15304)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14294)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12053)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15275)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11967)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12039)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13126)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16496)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19585)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12214)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11911)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11807)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12725)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14468)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12574)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15618)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13570)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12853)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9821)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17952)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11123)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12135)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13002)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12137)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11411)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14209)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19625)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24531)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant