Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thi Ca La Việt Lạy Sáu Phương

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 15501)
Kinh Thi Ca La Việt Lạy Sáu Phương


KINH THI CA LA VIỆT LẠY SÁU PHƯƠNG


Đại chánh tân tu số 0016, xem nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Sa môn An Thế Cao (đời Hậu Hán)

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o --- 

  

Phật ở trong núi Kê thuộc thành Vương xá.

Bấy giờ, có con của ông trưởng giả tên là Thi Ca La Việt, sáng sớm dậy, chải đầu tắm rửa, mặc áo đẹp, hướng về phương Ðông lạy bốn lạy, phương Nam lạy bốn lạy, phương Tây lạy bốn lạy, phương Bắc lạy bốn lạy, ngẩng lên trời lạy bốn lạy, cúi xuống đất lạy bốn lạy. Phật đi vào thành khất thực, từ xa trông thấy như vậy, Ngài liền đi đến nhà con ông trưởng giả để hỏi lý do:

–Tại sao lạy sáu phương? Việc này tương ứng với pháp gì?

Thi Ca La Việt thưa:

–Khi cha con còn sống dạy con lạy sáu phương. Con chẳng biết tương ứng với pháp gì. Nay cha con đã mất, con không dám trái lệnh.

Phật dạy:

–Cha ngươi dạy ngươi lạy sáu phương không phải dùng thân lễ bái.

Thi Ca La Việt liền quỳ xuống bạch Phật:

–Cúi mong Phật giải thích ý nghĩa của sự lạy sáu phương này cho con.

Phật dạy:

–Hãy lắng nghe và ghi nhớ. Trưởng giả là người thông minh trí tuệ hay trì bốn giới khôngvi phạm. Cho nên đời này được mọi người kính nể, đời sau được sanh lên trời:

¯ Một là không giết hại các quần sanh;

¯ Hai là không trộm cắp;

¯ Ba là không lấy vợ người;

¯ Bốn là không nói dối, nói hai lưỡi, tâm dục, tham dâm, sân hận, ngu si, phải tự kiềm chế đừng có nghe theo.

Nếu không tự kiềm chế bốn sự việc này thì tiếng xấu ngày một tăng, như mặt trăng đã lặn, ánh sáng thành tối tăm. Còn ai tự kiềm chế được việc ác này thì như mặt trăng lúc mới mọc, ánh sáng càng lúc càng tỏ, cho đến ngày rằm là lúc mặt trăng tròn đầy nhất.

Phật dạy:

–Lại có sáu việc làm cho tiền tài mỗi ngày một hao giảm:

¯ Một là thích uống rượu;

¯ Hai là thích cờ bạc;

¯ Ba là thích ngủ sớm dậy trễ;

¯ Bốn là thích mời khách và cũng muốn được người ta mời lại;

¯ Năm là muốn kết thân cùng với ác tri thức;

¯ Sáu là kiêu mạn khinh người.

Phạm bốn việc ác ở trên và lại làm sáu việc này sẽ phương hại đến hạnh lành, cũng như không ích lợi trong vấn đề sinh kế, khiến cho tiền bạc ngày một hao giảm, thì việc lễ bái sáu phương có ích lợi gì.

Phật dạy:

–Ác tri thức có bốn hạng:

¯ Một là bên trong có tâm oán thù, bên ngoài giả làm tri thức;

¯ Hai là đối với người trước mặt thì nói tốt sau lưng thì nói xấu;

¯ Ba là khi bạn có việc cần cấp, trước mặt bạn thì tỏ ra sầu khổ, sau lưng thì ấp ủ vui mừng;

¯ Bốn là bên ngoài như thân lắm, nhưng bên trong lại mưu oán.

–Thiện tri thức cũng có bốn hạng:

¯ Một là bên ngoài như oan gia, bên trong lại có lòng nhân hậu;

¯ Hai là trước mặt người thì thẳng thắn can ngăn, bên ngoài thì đề cao việc tốt của người;

¯ Ba là gặp khi bệnh hoạn, kẻ quan quyền làm cho bạn lo âu sợ sệt thì tìm cách giúp đỡ hóa giải;

¯ Bốn là thấy bạn nghèo túng cũng không bỏ rơi, thường nghĩ cách tìm phương tiện muốn cho được giàu có.

–Ác tri thức cũng có bốn hạng:

¯ Một là khó can gián, khó dạy dỗ làm điều thiện, cùng kẻ ác làm thân;

¯ Hai là dù có dạy bảo cũng không thích nghe vì làm bạn với kẻ uống rượu cho nên thích hợp với người nghiện rượu;

¯ Ba là dù có dạy bảo thì bảo thủ, lại còn gây nhiều chuyện;

¯ Bốn là dạy bảo làm bạn với kẻ hiền nhưng lại quen thân với bạn bè cờ bạc.

–Thiện tri thức cũng có bốn hạng:

¯ Một là thấy người bần cùng đói rách thì giúp cho sinh sống;

¯ Hai là không tranh hơn thua với người;

¯ Ba là thường hay thăm viếng;

¯ Bốn là đi đứng luôn luôn tưởng nhớ.

–Thiện tri thức lại có bốn hạng:

¯ Một là bị quan lại bắt bớ thì đem về che giấu, chờ sau sẽ giải quyết;

¯ Hai là có tật bệnh, ốm đau thì đem về nuôi dưỡng, chăm sóc;

¯ Ba là nhận biết bạn có sự chết chóc thì lo việc chôn cất;

¯ Bốn là nếu biết bạn đã chết, lại nghĩ tưởng đến gia đình bạn.

–Thiện tri thức lại có bốn hạng:

¯ Một là bạn muốn tranh giành đấu đá thì ngăn cản;

¯ Hai là bạn muốn theo kẻ ác tri thức thì khuyên can đừng theo;

¯ Ba là bạn không muốn làm ăn thì khuyên bảo lo làm ăn;

¯ Bốn là bạn không thích theo đạo pháp thì dạy bảo làm cho có niềm tin, vui vẻ.

–Ác tri thức lại có bốn hạng:

¯ Một là bị xâm phạm ít mà sân hận nhiều;

¯ Hai là khi có việc gấp rút nhờ cậy thì không chịu làm;

¯ Ba là thấy người khi có việc nguy cấp thì bỏ trốn;

¯ Bốn là thấy người chết chóc thì bỏ đi không quan tâm.

Phật dạy:

–Hãy chọn người tốt để theo, kẻ ác để tránh. Ta nhờ làm bạn với thiện tri thức mà tự mình được thành Phật.

Phật dạy:

–Lạy ở phương Ðông, đó là:

Con thờ cha mẹ có năm việc:

¯ Một là phải nhớ lo làm ăn;

¯ Hai là phải dậy sớm để sai bảo người giúp việc đúng giờ cơm nước;

¯ Ba là đừng để cha mẹ lo âu;

¯ Bốn là phải nghĩ đến công ơn của cha mẹ;

¯ Năm là cha mẹ bệnh tật thì phải lo lắng tìm thầy thuốc trị liệu.

Cha mẹ đối với con cũng có năm việc:

¯ Một là phải nhớ khiến cho con bỏ ác theo thiện;

¯ Hai là dạy cho con chăm lo học hành;

¯ Ba là dạy cho con trì kinh giữ giới;

¯ Bốn là phải biết lo dựng vợ gả chồng cho con;

¯ Năm là trong nhà có của cải gì phải để cho con.

–Lạy ở phương Nam, đó là:

Ðệ tử thờ thầy, có năm việc:

¯ Một là phải cung kính tán thán;

¯ Hai là phải nhớ ơn thầy;

¯ Ba là phải nghe theo lời thầy dạy;

¯ Bốn là nhớ nghĩ không nhàm chán;

¯ Năm là nên hết lòng theo và khen ngợi thầy.

Thầy dạy đệ tử cũng có năm việc:

¯ Một là phải làm cho mau hiểu biết;

¯ Hai là hãy làm cho đệ tử mình hơn đệ tử người khác;

¯ Ba là muốn làm cho điều đã biết nhớ mãi không quên;

¯ Bốn là các hoài nghi đều giảng giải;

¯ Năm là muốn khiến đệ tử trí tuệ hơn thầy.

–Lạy ở phương Tây, đó là:

Vợ thờ chồng có năm việc:

¯ Một là chồng đi đâu về phải đứng dậy nghênh tiếp;

¯ Hai là khi chồng đi khỏi phải lo mọi việc nấu nướng, quét dọn chờ chồng về;

¯ Ba là không được có lòng dâm dục với người khác, chồng có trách mắng cũng không được có thái độ trách mắng lại;

¯ Bốn là hãy làm theo lời chồng răn dạy, có nhặt được vật gì cũng không được che giấu;

¯ Năm là khi chồng ngủ nghỉ, phải lo sắp xếp xong rồi mới ngủ.

Chồng đối với vợ cũng có năm điều:

¯ Một là đi đâu phải cho vợ biết;

¯ Hai là việc ăn uống đúng giờ, cung cấp áo quần cho vợ;

¯ Ba là phải cung cấp vàng bạc châu báu;

¯ Bốn là những vật ở trong nhà nhiều ít đều phải giao phó cho vợ;

¯ Năm là không được ngoại tình, bằng cách nuôi dưỡng, hầu hạ, chuyển tài sản.

–Lạy phương Bắc là mình đối với người thân thuộc bằng hữu có năm việc:

¯ Một là thấy làm việc ác thì riêng đến chỗ vắng mà can gián, khuyên ngăn;

¯ Hai là thấy việc nguy cấp dù rất nhỏ cũng mau chạy đến cứu giúp;

¯ Ba là có điều nói riêng, không được nói cho người khác nghe;

¯ Bốn là phải kính mến khen ngợi nhau;

¯ Năm là có vật tốt dù nhiều dù ít cũng nên phân chia cho nhau.

–Lạy dưới đất là:

Chủ đối với người giúp việc, có năm việc:

¯ Một là phải đúng giờ cho ăn uống và cho quần áo;

¯ Hai là khi bị bệnh hoạn phải gọi thầy thuốc đến điều trị;

¯ Ba là không được đánh đập;

¯ Bốn là họ có của riêng thì không được chiếm đoạt;

¯ Năm là những vật phân chia phải phân chia đồng đều.

Tôi tớ đối với chủ cũng có năm việc:

¯ Một là phải lo dậy sớm, đừng để chủ nhà gọi;

¯ Hai là khi làm việc phải hết lòng;

¯ Ba là phải thương tiếc đồ vật của chủ, không được vứt bỏ cho người khác;

¯ Bốn là chủ nhà đi về phải đưa rước;

¯ Năm là phải khen ngợi điều hay, không được nói điều xấu của chủ.

–Hướng lên trời lễ bái là:

Con người phụng sự các bậc Sa môn, Ðạo sĩ, cần làm năm việc:

¯ Một là hướng đến với thiện tâm;

¯ Hai là chọn lời hay mà nói;

¯ Ba là lấy thân cung kính;

¯ Bốn là phải quyến luyến hâm mộ;

¯ Năm là Sa môn, Ðạo sĩ là kẻ thiện trong loài người, phải cung kính, thờ phụng, thưa hỏi về phương cách để thoát khỏi nổi khổ nơi cuộc đời.

Sa môn, Ðạo sĩ có sáu điều nhớ nghĩ đến phàm nhân:

¯ Một là dạy họ bố thí, không được tham lam keo kiệt;

¯ Hai là dạy cho họ trì giới, không được phạm sắc dục;

¯ Ba là dạy cho họ nhẫn nhục, không được giận hờn;

¯ Bốn là dạy cho họ tinh tiến, không được kiêu mạn, lười biếng;

¯ Năm là dạy cho họ nhất tâm, không được buông lung;

¯ Sáu là dạy cho họ sự hiểu biết, trí tuệ không được ngu si.

Sa môn, Ðạo sĩ dạy người bỏ ác làm lành, khai thị con đường chánh đạo, ơn ấy lớn hơn cha mẹ. Hãy làm như vậy, xem như lúc cha ngươi còn sống dạy ngươi lạy sáu phương, lo gì mà không phú quý.

Thi Ca La Việt liền thọ năm giới, làm lễ lui ra.

Phật nói bài kệ:

Gà gáy cần dậy sớm

Mặc y phục xuống đường

Súc miệng để tâm tịnh

Hai tay dâng hương hoa.

Phật cao hơn chư Thiên

Quỉ thần không bì kịp

Cúi đầu nhiễu tháp chùa

Vòng tay lạy mười phương.

Hiền giả không tinh tấn

Giống như cây không rễ

Rễ đứt cành lá khô

Khi nào mới liền được.

Người hái hoa giữa ngày

Hoa tươi được bao lâu

Phóng tâm tự buông ý

Mạng qua rồi nói gì.

Người phải nghĩ vô thường

Nó đến không hẹn trước

Phạm lỗi không tự biết

Mạng qua vì tự khinh.

Nay phải vào Nê lê

Khi nào mới ra được

Hiền giả nghe lời Phật

Trì giới chớ có nghi.

Phật như cây hoa tốt

Ai mà chẳng mến yêu

Nơi nơi nghe tiếng Ngài

Tất cả đều hoan hỷ.

Khi ta được quả Phật

Mong được như Pháp vương

Vượt qua đường sanh tử

Tất cả được giải thoát.

Giới đức mới cậy nhờ

Phước báo thường theo ta

Pháp thiện là người lớn

Trọn xa ba nẻo ác.

Giới trừ hết lo sợ

Phước đức ba cõi quý

Quỷ thầnđộc hại

Không phạm người có giới.

Ðọa thế tục khổ đau

Mạng nhanh như điện chớp

Già, bệnh, chết đến ngay

Chẳng kể là hào quý.

Chẳng ai để nương tựa

Không chỗ nào trốn được

Phước trời còn phải hết

Mạng người há dài lâu.

Ở nhà cửa cha mẹ

Thí như người khách trọ

Mạng trước thọ đã hết

Bỏ cũ thọ thân mới.

Tất cả do hành động

Xoay vần như bánh xe

Khởi diệt theo tội phước

Sanh tử mười hai nhân.

Hiện thân không thác loạn

Tế độ khắp mọi người

Thương chúng rơi đường tà

Trôi giạt nơi vực thẳm.

Siêng năng dùng sáu độ

Tu hành đạt như nhiên

Cho nên cúi đầu lạy

Qui mạng “Thiên Trung Thiên”.

Thân người đã khó được

Ðược thân lại tham dục

Ý thức đối tham dâm

Thọ, tưởng không nhàm chán.

Dự bịđời sau

Hoan hỷ đến địa ngục

Sáu tình đã đầy đủ

Tự mình chịu khổ đau.

Nhất thiết phải chánh tâm

Ba đời thần thức tốt

Không tham đắm tám nạn

Tùy hạnh sanh mười phương.

Sanh đâu cũng tinh tấn

Sáu độ là cây cầu

Huệ rộng lớn khuyên răn

Tất cả nhờ thần quang (Phật ). 

Phật nói kinh THI CA LA VIỆT LẠY SÁU PHƯƠNG

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12518)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10852)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10524)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11196)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12005)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13155)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13643)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33673)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13062)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11635)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17901)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11449)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11864)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11512)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18980)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12555)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11346)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15781)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11824)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11700)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12637)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13972)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13000)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12953)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13301)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12776)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12703)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11753)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11739)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12329)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12389)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19827)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11964)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11991)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16889)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12675)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15065)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16123)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12884)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12243)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11920)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11930)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13154)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16510)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11823)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19864)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11159)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11263)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10404)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11101)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10972)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10038)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11757)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant