Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Đại Tam Ma Nhạ

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13159)
Kinh Đại Tam Ma Nhạ

PHẬT NÓI KINH ÐẠI TAM MA NHẠ


Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðại Sư Pháp Thiên (đời Tống)

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o --- 

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại rừng Ca tỳ la, cùng với chúng Ðại Bí sô đều là A la hán, các lậu đã hết, việc cần làm đã làm xong, đã được tự lợi, dứt hết các sự trói buộc, tâm được tự tại; như vậy gồm có năm ngàn năm trăm người đông đủ.

Bấy giờ mười phương lại có chư Thiên, Thích, Phạm, đầy đủ đại oai đức, cùng các quyến thuộc cung kính vây quanh, thân sắc đoan nghiêm, hào quang chiếu sáng, đi đến rừng Ca Tỳ la, tới trước Thế tôn, đầu mặt lạy dưới chân, đứng qua một bên. Khi đó, bốn vị Ðại Phạm vương, mỗi vị dùng một bài kệ ca tụng công đức của Phật. Vị Phạm vương thứ nhất đọc tụng:

Ðại Tam Ma Nhã này.

Tuyên dương diệu pháp âm.

Phật của con hơn hết.

Trời, người đều tập hợp.

Vị Phạm vương thứ hai:

Trải qua vô số kiếp.

Tu hành, tâm tin sâu.

Giữ gìn mắt, các căn.

Không đắm nơi trần cảnh.

Vị Phạm vương thứ ba:

Giới định huệ chơn thật.

Thanh tịnh không cấu nhiễm.

Như Kim cang Ðế thích.

Kiên cố không thể hoại.

Vị Phạm vương thứ tư:

Nếu ai quy y Phật.

Trọn không đọa nẻo ác

Người ấy khi mạng chung

Liền được sanh cõi trời.

Bấy giờ đức Thế tôn dùng thiên nhãn thanh tịnh khắp xem đại hội, chúng trời và người vô lượng vô số, bảo các Bí sô:

–Thời quá khứ các đức Như lai, Ứng cúng Chánh đẳng giác, nhóm họp người trời để thuyết pháp, cũng như thế này. Ngày nay ta tập hợp trời người là chằm để thuyết pháp, các vị hãy nên thọ trì. Nếu người nào dõng mãnh, quyết định không sợ sệt, giống như sư tử, có sự tin tưởng sâu xa, vững chắc mà không tham đắm thì từ thế gian cõi người cho đến cõi Phạm thiên, đều đạt được Niết bàn.

Khi thuyết pháp này lại có một ngàn bảy trăm trời người hữu họcvô số chư thiên với hào quang chiếu sáng, đi đến chỗ Phật. Phật bảo các Bí sô:

–Các vị hãy lắng nghe cho kỹ. Ta xem các thiên chúng vừa đến đây, nên dùng pháp ưa thích của hàng Thanh vănhóa độ họ.

Bấy giờ lại có bảy ngàn Ðại dược xoa, có đủ oai đức đại thần thông, hào quang chiếu sáng, cùng các quyến thuộc cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la.

Lại có sáu ngàn Ðại Dược xoa đứng trên núi Kim sơn, có đầy đủ oai đức đại thần thông, hào quang chiếu sáng, cùng các quyến thuộc cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la.

Lại có ba ngàn Ðại Dược xoa đứng trên núi Ta Ða, có đầy đủ oai đức đại thần thông, hào quang chiếu sáng, cùng các quyến thuộc cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la.

Lại có trăm ngàn Dược xoa, Cung tỳ la... đứng trên núi Vĩ Bố La, thành Vương xá, có đầy đủ oai đức đại thần thông, hào quang chiếu sáng, cùng các quyến thuộc cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la.

Lại có Thấp phạ di đát ra, Bán tả thủy, Vĩ thấp phạ di phạ... các đại tướng Dược xoa, có đầy đủ oai đức đại thần thông, hào quang chiếu sáng, cùng các quyến thuộc, đi đến rừng Ca tỳ la.

Lại có Hộ Thế thiên vương Càn thát bà chủ ở phương Ðông, tên là Ðịa Lý Ða Ra Sắc Ðà Ra, có đủ đại thần thông, vô lượng oai đức, thân sắc đẹp đẽ, hào quang sáng chói, cùng các quyến thuộc cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp. Hộ Thế thiên vương Cưu bàn nô chủ ở phương Nam tên là Vĩ Lỗ Trà Ca, có đủ đại thần thông, vô lượng oai đức, thân sắc đẹp đẽ, hào quang sáng chói, cùng các quyến thuộc cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp. Hộ Thế thiên vương ở phương Tây là Ðại long chủ tên là Vĩ Lô Bác Xoa có đủ đại thần thông, vô lượng oai đức, thân sắc đẹp đẽ, hào quang sáng chói, cùng các quyến thuộc cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp. Hộ Thế thiên vương ở phương Bắc là Ðại dược xoa chủ tên là Câu Phệ Ra, có đủ đại thần thông, vô lượng oai đức, thân sắc đẹp đẽ, hào quang sáng chói, cùng các quyến thuộc cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp. Lại có, các quỷ thần theo hầu Tứ Ðại thiên vương, đó là Ma dã, Ca trí, Vĩ chỉ trí, Bạt lý ngu, Bạt lý cu trí.... đều có thần thông uy lực, ngã mạn, vô minh, hình dáng xấu xí, biến hóa đủ loại, cùng với quyến thuộc cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có các Dược xoa thần tướng đó là Ấn nại ra, Mộ phạ lỗ nô, Bát ra nhạ bát đế, Bà ra nại phược nhạ, Y xá nẳng, Tán nan nẳng, Ca ma, Tất lý sắc tra, Cu nễ kiến tra, Nễ kiến tra, Mãn ni ma ni tả ra, Bát ra nô na, Ô ba bán tả ca, Sa đa nghi lý, Hải ma phạ đa bố ra noa khư nễ ra cu vĩ tra ngu ba ra dược xoa, A tra phạ cu nẳng ra ra nhạ nễ, Nẳng lý sa bà, Tức đát ra tế nẳng, Hiến đà lý phạ, Nễ lý đà thiết đế ma đa lệ, Bán tả ra, Hiến noa tô mô ma nẳng di lý cụ, cùng các quyến thuộc Ðát lý phả lệ, Ðát lý kiến tra kế, cho đến các vị du hành trong thế gian, có đủ oai đức thần thông, hào quang chiếu sáng, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có các Ðại độc long, đó là Rồng Ðát xoa ca, Kiếm mạt la thấp phạ đa lỗ, Bát ra bát đa, Bát ra nhạ ngu, Sa ngu nẳng sa họa tảo na cu, Ðịa lý đa ra sắt tra ra, Cu tổ ra, Ái ra phạ ni... sân hận bạo ác, có oai đức đại thần thông, hào quang sáng chói, cùng các quyến thuộc cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có Kim sí điểu tên là Vô Úy, cùng các loại thú bay, có mắt thanh tịnh... cùng các quyến thuộc cũng có đủ oai đức thần thông, hào quang chiếu sáng, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có Kim cang thủ Vô năng thắng, ở trong biển cả, tất cả Bố uý dược xoa cùng các quyến thuộc đều có đủ oai đức thần thông, hào quang chiếu sáng, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có chúng A tu la, đó là Vĩ ma tức đát ra, Tô tức đát ra, Bát ra hạ, Na mẩu na lệ và một trăm Mạt lệ a tu la tử cùng các quyến thuộc có đủ đại thần thông, vô lượng oai đức, hào quang chiếu sáng, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có Tứ đại thiên vương, Ðao lợi thiên, Dạ ma thiên, Ðâu suất đà thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên và các thiên chúng, đều có đủ oai đức thần thông, hào quang chiếu sáng, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có các Danh thiên đó là Phạ Lỗ Noa thiên, Phạ Lỗ Ni thiên, Tô Ma thiên, Tất Lý Sắc Tra thiên, A Nga Ma thiên, Mật Ðát Ra Phạ Lỗ Ni thiên, Ðịa thiên, Thủy thiên, Hỏa thiên, Phong thiên, mười vị trời như vậy, có đủ đại oai đức, thần thông biến hóa, hào quang chiếu sáng, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có Na la diên thiên, Ta hạ lợi tả thiên, Nhật thiên Nguyệt thiên, Tinh tú thiên, Ðế thích thiên, Mạc già thiên, tất cả tối tôn hiền thánh thiên, cùng các quyến thuộc... mười vị trời như vậy, có đủ đại thần thông, vô lượng oai đức, hào quang chiếu sáng, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có các thiên nữ..., đó là Ta Hê Ca thiên nữ, Như Hỏa Diệm thiên nữ, A Lý Sắc Tra thiên nữ, Tô Ma thiên nữ, Ô Ða Ma thiên nữ, Bổ Sắc Ba Phạ Tất Nễ thiên nữ, Tả Ra Ca thiên nữ, Tô Bạt Nại Ra thiên nữ, Yết Xoa A Tả Dụ Ða thiên nữ, Bát Ra Nại Dụ Ma Nẳng thiên nữ, Sa Nễ Ca.... vô số thiên nữ như vậy cùng các quyến thuộc, có đủ đại thần thông, vô lượng oai đức, thân tướng đoan nghiêm, hào quang chiếu sáng, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có Ðại dược xoa nữ, đó là Xá Ma dược xoa nữ, Ma Ha Xá Ma dược xoa nữ, Ma Nậu Sa dược xoa nữ, Ma Nậu Số Ðát Ma dược xoa nữ, Ngật Lý Noa dược xoa nữ, Bát Ra Mộ Sa dược xoa nữ, Ma Nẳng Bát Ra Nổ Sa Ca dược xoa nữ, Mạc Ra Hạ dược xoa nữ, Ma Hạ Mạt Ra dược xoa nữ, Bí Sô Mâu Ni Ca dược xoa nữ, mười hai đại dược xoa nữ như vậy, cũng có đủ oai đức thần thông, hào quang chiếu sáng, cùng các quyến thuộc, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có mười Ðại dược xoa nữ, đó là Thâu ngật ra dược xoa nữ, Yết noa mạt ra dược xoa nữ, Ca lô noa dược xoa nữ, Nễ ra ca phạ tất nễ dược xoa nữ, A phạ na đa kế xá dược xoa nữ, Bát ra mục khế bế đa ca phạ tất nê dược xoa nữ, Ta na ma đa dược xoa nữ, Ha lý đế dược xoa nữ, Lô tức ca dược xoa nữ, các dược xoa nữ như vậy cũng có đủ oai đức thần thông, hào quang chiếu sáng, cùng các quyến thuộc, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Lại có Hạ lý đế và quyến thuộc đồng nam, đồng nữ cũng có đủ oai đức thần thông, hào quang chiếu sáng, cùng các quyến thuộc, cung kính vây quanh, đi đến rừng Ca tỳ la, nơi chúng hội để nghe pháp.

Như vậy, mười phương Phạm vương, Ðế thích, trời người, tám bộ, các đại Bí sô, vô lượng vô số đều đến nơi chúng hội.

Bấy giờ, trong chúng hội có một vị Ðại hắc thần tên là Tổ Tôn Na, có đủ đại thần thông, dõng mãnh, bạo ác, luôn gây não hại cho trời người, làm chướng ngại cho việc tu thiện, lấy tay vỗ mặt đất, phát ra âm thinh đại ác, ở trên hư không hóa ra gió lớn, mây lớn, sét lớn, mưa đá lớn, sấm lớn, tia chớp có sét lớn, các thứ tướng xấu ác khiến ai cũng khiếp sợ. Phật liền quán sát giảng nói pháp Thanh văn, ma đã nghe xong liền quy ychấm dứt các điều ác ấy, cùng các Bí sô đồng an trụ trong Thanh văn thừa.

Bấy giờ, chúng hội thấy Phật hàng phục các ma ác, tâm đều phấn khởi vui mừng, tin kính vâng làm.

 

PHẬT THUYẾT ÐẠI TAM MA NHẠ KINH

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11616)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11924)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11094)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12054)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10748)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9935)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10161)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12338)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14315)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12081)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15321)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11987)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10595)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12544)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13147)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14776)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12647)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16528)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19626)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13098)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12237)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11821)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13474)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11930)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11831)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11620)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12750)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15651)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12877)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9852)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17996)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9056)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15285)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12191)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11454)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19662)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24569)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10669)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant