Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tát Bát Đa Tô Lý Du Nại Đã

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12147)
Kinh Tát Bát Đa Tô Lý Du Nại Đã


PHẬT NÓI KINH TÁT BÁT ÐA TÔ LÝ DU NẠI DÃ


Đại Chánh Tân Tu số 0030 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống, Tây Thiên dịch kinh Tam tạng Triều Tán Ðại phu Thí Quang Lộc Khanh, Minh giáo đại sư Pháp Hiền phụng chiếu.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại tinh xá Lâu Các, giếng Viên Hầu, nước Tỳ Xá Ly. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Bí sô:

–Các ngươi nay hãy lắng nghe cho kỹ: “Các hành là vô thường, là pháp sanh diệt, nó không chắc, không thật, không có rốt ráo, không thể gánh vác, không thể ưa thích”. Các ngươi nên biết, phải siêng năng tinh tấn để cầu giải thoát. Này Bí sô, thời gian không thể dừng lâu, nó thay đổi trong từng niệm.

Từ nay về sau, lúc kiếp sắp hết, trời không có mưa, nhân gian bị hạn hán; toàn cả đại địa, tất cả cây cối, rừng rú, trăm thứ lúa mạ, tất cả hoa quả đều bị khô rang, đều không thành tựu.

Này Bí sô, hãy nên biết rằng: “Các hành là vô thường, là pháp sanh diệt, nó không chắc, không thật, không rốt ráo, không thể gánh vác, không thể ưa thích”. Các ngươi hãy nên gia sức tinh tấn để cầu giải thoát.

Này Bí sô, lúc kiếp sắp hoại có hai mặt trời xuất hiện thiêu đốt thế gian, sức nóng càng ngày càng tăng, toàn cõi đại địa các thứ cây cối, rừng rú, rễ, cành, nhánh, lá tất cả đều bị hủy hoại chẳng còn gì cả. Này Bí sô, sự vô thường như vậy, không thể bảo tồn lâu dài được. Nay đây các ngươi phải nên ra sức tinh tấn để cầu giải thoát.

Lại nữa, này Bí sô lúc kiếp sắp hoại có ba mặt trời xuất hiện thiêu đốt thế gian, sức nóng dữ dội hơn trước, toàn cõi đại địa, các sông ngòi nhỏ, tất cả khe suối đều bị khô cạn không còn chút nước. Bí sô nên biết, sự vô thường là như vậy, ai mà thoát được? Cho nên nay ta ân cần khuyên bảo, các ngươi hãy mau cầu giải thoát.

Này Bí sô lúc kiếp sắp hoại có bốn mặt trời xuất hiện thiêu đốt thế gian, sức nóng dữ dội hơn trước, toàn cõi đại địa không có ao nước nào không bị nung nóng. Bốn dòng sông lớn: sông Hằng, sông Tín Ðộ, sông Tế Ða, sông Pha Sô, tất cả đều bị khô cạn, không còn chút nước. Các Bí sô nên biết, vô thường như vậy, ai mà thoát khỏi? Các ngươi hãy tự tư duy, không còn tâm giải đãi ngạo mạn nữa, để sớm cầu giải thoát.

Này Bí sô lúc kiếp sắp hoại có năm mặt trời xuất hiện thiêu đốt thế gian, sức nóng dữ dội hơn trước. Nước của biển lớn trong đại địa dần dần rút xuống một trăm do tuần, hai trăm do tuần, ba trăm do tuần, cho đến một ngàn do tuần. Lúc mặt trời đã thiêu đốt dữ dội, cả bầu trời gieo rắc sự tàn hại. Lại nữa, nước biển giảm xuống cho đến hai ngàn do tuần, ba ngàn do tuần, cho đến bảy ngàn do tuần, đã giảm như vậy rồi, các nguồn nước khác ở trong biển cũng chỉ còn bảy ngàn do tuần.

Này Bí sô, như vậy nước biển từ bảy ngàn do tuần dần dần lại giảm xuống cho đến sáu ngàn do tuần, năm ngàn do tuần, bốn ngàn do tuần, cho đến còn có bảy trăm do tuần.

Này Bí sô, như vậy nước biển từ bảy trăm do tuần dần dần lại giảm xuống cho đến sáu trăm do tuần, năm trăm do tuần, bốn trăm do tuần, cho đến còn có bảy do tuần.

Này Bí sô, như vậy nước biển từ bảy do tuần dần dần lại giảm xuống cho đến sáu do tuần, năm do tuần, bốn do tuần, cho đến còn có bảy do tuần.

Này các Bí sô, như vậy nước biển từ bảy do tuần dần dần lại giảm xuống cho đến sáu do tuần, năm do tuần, bốn do tuần, cho đến còn có bảy câu lô xá.

Này các Bí sô, như vậy nước biển từ bảy câu lô xá dần dần lại giảm xuống cho đến sáu câu lô xá, năm câu lô xá, bốn câu lô xá, cho đến còn có bảy cây đa la.

Này các Bí sô, như vậy nước biển từ bảy cây đa la dần dần lại giảm xuống cho đến sáu cây đa la, năm cây đa la, bốn cây đa la, cho đến bằng bảy người đứng.

Này các Bí sô, như vậy nước biển từ bảy người đứng dần dần lại giảm xuống sáu người đứng, năm người đứng, bốn người đứng, cho đến còn một người đứng, rồi đến cổ người, đến hông người, đến rốn người, đến eo người, đến đầu gối, đến mắt cá người, cho đến còn một ngón chân tức thì đại địa khô cháy. Bấy giờ thế gian chỉ có đại địa, núi sông, ngoài ra thì chẳng còn gì nữa cả.

Ðức Phật dạy:

–Này Bí sô, các hành là vô thường, sanh diệt, không đứng yên, không thật, không bền chắc. Các ngươi đối với chúng nên sớm cầu giải thoát.

Này Bí sô lúc kiếp sắp hoại có sáu mặt trời xuất hiện, cả đại địa đốt cháy, núi đá tiêu chảy, núi chúa Tu Di bốc khói như nung gạch ngói có khói đen bốc lên cũng lại như vậy. Bấy giờ thế gian không thể nào quán sát được. Này Bí sô, vô thường sanh diệt, không trụ như vậy. Các ngươi nên gia tâm tinh tấn, bỏ tâm tham ái, mau cầu giải thoát.

Này Bí sô lúc kiếp sắp hoại có bảy mặt trời xuất hiện, sức nóng dữ dội, bỗng nhiên lửa cháy bừng bừng như đốt mười đống củi, trăm, ngàn, vạn đống củi, cho đến tiểu thiên thế giớichư thiên Lục dục đều thành một đám lửa, thiêu đốt dục giới rồi đến cõi Sơ thiền của Phạm Thế, ngọn lửa cũng tự bốc cháy thiêu đốt cung điện cao một trăm do tuần, hoặc hai trăm do tuần, ba trăm do tuần, cho đến bảy ngàn do tuần của khí thế giới. Cung điện như vậy đều thành một đám lửa, cho đến Nhị thiền. Các Phạm chúng mới sanh lên thấy ngọn lửa bừng bừng ở phía dưới, trong lòng hết sức kinh sợ hãi hùng, tìm cách tránh hỏa nạn. Khi ấy những vị trời sanh trước ở Nhị thiền bảo rằng:

-Các ngươi đã được thiện duyên đời trước mà sanh đến cung điện của ta, hãy tự an tâm, chớ sanh lòng khiếp sợ. Lửa của địa cầu dưới đây không bao lâu nữa sẽ tự tắt.

Nói như vậy xong, bỗng nổi gió lớn thổi tắt khói lửa, không còn tro than gì cả. Thí như có người ở trong hư không lấy dầu bơ đốt thành một ngọn đuốc, đuốc cháy hết rồi không còn khói đen và tro gì cả. Sau khi ngọn lửa diệt rồi cũng lại như vậy.

Ðức Phật dạy:

–Này Bí sô, pháp của hữu vi thì sanh diệt, không trụ, là pháp điên đảo, không bền, không thật, không rốt ráo, không thể an vui. Hãy xa lìa tham ái, sớm cầu giải thoát. Nếu không tham ái thì nhân duyên gì mà đại địa chư thiên bị phá hoại không tồn tại?

Lại nữa, này Bí sô, như kiếp quá khứđức Phật ra đời hiệu là Diệu Nhãn Như Lai, có vô lượng vô biên chúng Thanh Văn và các Phạm thiên, chúng ngoại đạo ly dụcthần thông. Ðức Diệu Nhãn Như Lai vì các Thanh Văn nói pháp thanh tịnh phạm hạnh, ý nghĩa rốt ráo sâu xa. Bấy giờ các Bí sô... được tất cả giới pháp tròn đầy, tùy ý tu hành, hoặc thực hành pháp quán Tứ vô lượng, đoạn trừ dục nhiễm ô uế, sanh lên trời Phạm thiên. Hoặc có người thích sanh lên trời Tha Hóa Tự Tại, hoặc thích sanh lên trời Hóa Lạc, thích sanh lên trời Ðâu Suất, thích sanh lên trời Dạ Ma, thích sanh lên trời Ðao Lợi, thích sanh lên trời Tứ Thiên Vương, thích sanh vào nhà Sát Ðế Lợi, thích sanh vào nhà Bà la môn, thích sanh vào nhà trưởng giả, cư sĩ.

Bấy giờ đức Như Lai Diệu Nhãn suy nghĩ như thế này: “Nay ta hãy khiến cho các Thanh Văn chúng đồng hạnh nguyện, đồng thọ sanh, đồng một oai lực, nhập vào thiền định thứ hai của đức Từ Thị”. Nghĩ như vậy xong liền nhập vào thiền định thứ hai của đức Từ Thị. Bấy giờ có vô lượng trăm ngàn Thanh Văn, ngoại đạo v.v... đều tu định này, đều được sanh lên trên Phạm Thiên.

Ðức Phật nói:

–Này Bí sô, thuở trước đức Như Lai Diệu Nhãn thật ra chẳng phải đức Phật nào khác, chính là thân ta vậy. Các chúng sanh ấy tuy sanh ở Nhị thiền, thoát khỏi tai nạn lửa cháy ở dưới, nhưng chưa lìa chủng tử tham, sân, si cho nên không thể giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết.

Này Bí sô, Như Lai là bậc Ứng Chánh Ðẳng Giác, là thầy của trời, người, đã xa lìa tham, sân, si... tất cả phiền não, đã giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu bi khổ não; lại vì chúng Phạm thiên, Thanh Văn v.v... tùy theo căn cơtuyên thuyết pháp hạnh thanh tịnh. Mọi người nghe xong hoặc có người đoạn tận phân biệt dục và câu sanh, chứng quả A Na Hàm. Hoặc có người phân biệt và ba phẩm câu sanh, chứng quả Tư Ðà Hàm, hoặc có người tuy đoạn tận phân biệt nhưng chưa đoạn câu sanh, chứng quả Tu Ðà Hoàn, thọ quả báo nhân thiên, trải qua bảy lần sanh trở lại nữa mới thành A La Hán.

Ðức Phật dạy:

–Này Bí sô, xuất gia như vậy, Phạm hạnh như vậy, quả chứng như vậy, được thoát ly khỏi biên giới của khổ đau mà được giải thoát. Nay, các ngươi đem hết tâm chí xả ly tham ái, mong cầu con đường giác ngộ.

Bấy giờ đức Thế Tôn thuyết pháp này xong, các Bí sô nghe đức Phật thuyết, trong lòng hết sức hoan hỷ, tín thọ, phụng hành.

 

PHẬT NÓI KINH

TÁT BÁT ÐA TÔ LÝ DU NẠI DÃ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11634)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11959)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11113)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11343)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12557)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10766)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17977)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11725)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9946)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15338)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11240)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12000)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11183)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10613)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13169)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14839)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12679)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16575)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19663)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12666)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12253)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11846)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13523)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11948)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12766)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14515)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12613)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9863)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9078)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13048)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10308)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12197)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15310)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16610)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14270)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19699)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14150)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24606)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10691)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant