Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Luân Vương Thất Bảo

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12832)
Kinh Luân Vương Thất Bảo

PHẬT NÓI KINH LUÂN VƯƠNG THẤT BẢO

 

Đại Chánh Tân Tu số 0038 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống Tây Thiên, Triều Phụng Ðại phu Thí Hồng Lô Khanh, Truyền pháp Ðại sư Thi Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá Vệ cùng đông đủ chúng đại Bí sô. Bấy giờ đức Phật bảo các Bí sô:

–Các ngươi nên biết, có Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Vương, đã thọ pháp quán đảnh, được địa vị luân vương, oai đức tự tại được mọi người tôn trọng. Lúc vua xuất hiện, ở thế gianbảy báu xuất hiện. Những gì là bảy báu? -Ðó là xe báu, voi báu, ngựa báu, chủ tàng thần báu (cư sĩ báu), chủ binh thần báu, Ma ni báu, nữ báu. Bảy báu như vậy theo vua mà xuất hiện.

Sao gọi là xe báu?

–Ðó là bánh xe bằng vàng có một ngàn căm, tối thượng tuyệt diệu, các tướng tròn đầy, có đại oai lực, kim luân báu này từ không trung hạ xuống, đứng trước cửa cung vua. Bấy giờ vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương thấy xe báu này xuất hiện rồi, trong lòng hết sức vui mừng, liền bảo quan hầu rằng: “Ngươi hãy mau chuẩn bị bốn loại binh để ta du hành”. Khi ấy quan hầu vâng lệnh của vua xong liền chuẩn bị bốn loại binh. Khi đã nghiêm chỉnh rồi, liền đến chỗ vua tâu rằng: “Bốn thứ binh đã chuẩn bị xong, mong đức vua hãy du hành, nay đã đúng lúc”.

Bấy giờ vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương liền từ tòa đứng dậy, sửa lại y phục, đi ra cửa cung, chiếc xe báu ngàn căm ấy đến trước vua, chạy về phía tay mặt của vua. Khi ấy vua du hành bốn biển, chỉ trong nháy mắt mà đã trở về cung vua, do vì công năng thù thắng của xe báu vậy. Này các Bí sô, đó gọi là khi vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì xe báu xuất hiện. Ðó là thứ nhất.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện, lại có voi báu xuất hiện, voi báu có thân tướng thù diệu, hoàn toàn trắng tinh, không có xen tạp, giống như rồng lớn có bảy chỗ đầy đặn viên mãn nơi thân, nó từ phương Bắc cỡi hư không mà đến, đứng trước cung vua. Bấy giờ các quan liêu thấy voi báu rồi, tâu lại đầy đủ cho vua. Vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương thấy voi báu này xuất hiện rồi, trong lòng rất vui mừng, tự suy nghĩ: “Hết sức tốt lành, vô cùng thù thắng, nếu ta cần dùng hãy giữ lấy voi báu, nếu ta cần dùng hãy giữ lấy voi báu này mà dùng”.

Bấy giờ vua bảo các thần rằng:

–Voi báu xuất hiện, các ngươi hãy nên siêng năng gìn giữ để phòng bị lúc ta cần đến.

Khi ấy quân hầu vâng lệnh vua xong, luôn luôn siêng năng giữ gìn, khéo léo tập luyện voi báu, không để sơ sót một tí phòng lúc vua dùng đến.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

-Ngày xưa vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thế gian, bấy giờ cũng có voi báu xuất hiện, nhà vua vào lúc sáng sớm cỡi voi báu ấy du hành bốn biển, ngay tức khắc liền trở về cung. Các ngươi nên biết, voi báu có công năng thắng diệu như vậy.

Này các Bí sô, đó gọi là khi vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì có voi báu xuất hiện. Ðó là thứ hai.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương Ðại Quán Ðảnh xuất hiện, lại có bốn con ngựa báu xuất hiện, các bộ phận trên thân chúng đều tròn đầy, con nào cũng có sắc tướng cực đẹp. Ðó gọi là xanh, vàng, đỏ, trắng, trước cổ sau cổ thật đẹp, giống như Mịch La, nó bước đi rất nhanh, lại khéo điều phục, bốn con ngựa báu này xuất hiện ở cung vua. Khi ấy các quan thấy ngựa báu tuyệt đẹp, hiếm có, liền tâu với vua. Vua Ðại Quán Ðảnh thấy bốn con ngựa báu này rồi, trong lòng rất vui mừng tự suy nghĩ: “Ngựa báu xuất hiện hết sức tốt đẹp, nếu ta cần dùng, chắc chắn sẽ được như ý”.

Vua Ðại Luân Vương lại tuyên bố rằng: “Này hỡi các thần, hãy nên siêng năng giữ gìn, khéo léo luyện tập ngựa báu này trong mọi lúc, khi ta cần dùng thì ta sẽ xử dụng”. Khi ấy các viên quan vâng lệnh của vua, luôn luôn phòng hộ ngựa báu, chờ lúc vua xử dụng.

Này các Bí sô, Ngày xưa có vua Ðại Quán Ðảnh xuất hiệnthế gian, khi ấy cũng có ngựa báu xuất hiện. Nhà vua vào lúc sáng sớm cỡi ngựa báu này chu du bốn biển, ngay tức khắc liền trở về cung. Các ngươi nên biết, ngựa báu ấy có công năng thù thắng như vậy. Này các Tỳ kheo, đó gọi là khi Luân Vương Ðại Quán Ðảnh xuất hiện thì ngựa báu cũng xuất hiện. Ðó là thứ ba.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Chủ tàng thần báu xuất hiện. Bấy giờ kho tàng báu to lớn vững chắc, có nhiều tiền của phú quý, do thần Bảo làm chủ. Khi ấy vị thần chủ kho tàng liền đi đến chỗ vua thưa rằng: “Có một kho tàng lớn, quý báu, có đầy đủ tất cả trân bảo thù diệu, đó là vàng... tất cả vật báu, nếu vua cần dùng tôi sẽ dâng tất cả như ý muốn của ngài, không thiếu vật gì”.

Bấy giờ vua Luân Vương thấy thần Bảo chủ kho tàng xuất hiện, trong lòng rất vui mừng. Vua lại nghe thần Bảo nói rằng: “Vàng ... các báu tất cả đầy đủ, ngài muốn lấy bao nhiêu tùy ý”. Khi ấy, nhà vua liền bảo thần Báu chủ kho tàng rằng: “Nay ngươi có oai lực, thần thông sắc tướng như vậy, có thể làm chủ những kho tàng lớn giấu trong đất, như vàng ... các báu, tất cả đầy đủ, thấy những việc làm như vậy hết sứchy hữu, vô cùng tốt lành, ngươi hãy khéo mà chủ trì. Khi nào ta cần, ngươi sẽ cung cấp, ngoài ra khi ta chưa cần, ngươi hãy khéo mà chủ trì.

Này các Bí sô, các ngươi nên biết các kho tàng che giấu dưới đất này, con người không thấy, nhưng phi nhơn thì thấy. Khi Luân Vương xuất hiện, có vị thần chủ kho tàng tự xuất hiện, giữ gìncung cấp tất cả cho vua. Gọi là khi Luân Vương xuất hiện là có Chủ tàng thần báu xuất hiện, đó là thứ tư.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Chủ binh thần báu xuất hiện, vị chủ binh này có đại trí, thao lược, dõng mãnh, oai đức, sức lực lớn và sắc tướng, tất cả đều đầy đủ, khéo huấn luyện binh chủng, phòng thủ ranh giới của vương quốc, nên không bị địch quân xâm nhiễu. Bấy giờ vị Chủ binh thần báu đi đến chỗ vua, thưa như vầy:

–Ðại vương nên biết, tôi là chủ binh thiện nghệ, gìn giữ đất nước của vua, bất cứ lúc nào, có làm việc gì đều đúng theo ý của vua, không hề thiếu sót. Khi ấy nhà vua thấy Chủ binh thần này xuất hiện, trong lòng rất vui mừng, liền bảo rằng: “Nay ngươi có đại trí lược, dõng mãnh, oai đức, sức mạnh, sắc tướng, có thể làm bất cứ điều gì ở bất cứ lúc nào, khéo điều khiển binh chủng để giữ gìn biên giới đất nước, ngươi thật là bậc hiền thiện, ngươi hãy luôn luôn phụ tá cho ta, tất cả việc làm ngươi hãy phương tiện. Nay ngươi chính là người đại thủ hộ cho vua. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Chủ binh thần báu xuất hiện. Ðó là thứ năm.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Ðại Ma Ni báu xuất hiện. Ngọc Ma Ni báu này rất tối thượng, sắc màu tốt đẹp lạ thường, nó có đầy đủ ánh sáng to lớn viên mãn, ánh sáng ấy cực mạnh, chiếu sáng tất cả, có công đức lớn, ở trong cung vua nếu có ngọc báu này, dù cho đêm tối, không có đèn chiếu sáng, ngọc này phát ra ánh sáng tự nhiên chiếu sáng, giống như ánh sáng mặt trời. Này các Bí sô, xưa kia có vị Ðại Luân Vương xuất hiện thế gian, lúc ấy cũng có ngọc Ðại Ma Ni báu có ánh sáng lớn xuất hiện. Khi ấy nhà vua muốn thí nghiệm khả năng của viên ngọc, liền bảo quan đại thần chuẩn bị gấp bốn thứ binh vào lúc ban đêm du hành trong khu rừng. Bấy giờ quan đại thần vâng theo lệnh vua liền chuẩn bị gấp bốn loại binh, rồi đi đến chỗ vua tâu như vầy: “Bốn thứ binh chủng đã tập hợp, nay đã đến lúc xin vua khởi hành”.

Lúc đó nhà vua liền lấy viên ngọc Ðại Ma Ni báu đặt ở trên ngọn cờ, nhà vua đi đầu tiên, vào trong đêm tối, du ngoạn trong khu rừng. Ánh sáng của viên ngọc chiếu sáng cả một do tuần, bốn thứ binh chủng của nhà vua đều được ánh sáng chiếu soi, như ánh sáng trên trời không có sai khác. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Ðại Ma Ni báu xuất hiện. Ðó là thứ sáu.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có nữ báu cũng xuất hiện, sắc tướng của nàng tuyệt đẹp, thân thể tròn đầy xinh đẹp đệ nhất, các người trong thế gian không ai sánh bằng. Nàng êm dịu, nhẹ nhàng, mềm mại như cây Cán Tức Lê; các lỗ chân lông trên người nàng đều toát ra mùi hương vi diệu giống như bình báu chứa đầy hương thơm, lúc nào cũng phảng phất mùi thơm. Lại nữa, hơi thở ra vào của nữ báu đều luôn luôn có mùi thơm như hoa sen xanh, mọi người đều yêu thích. Như lúc vua đi đâu thì nữ báu theo sau, những điều nàng làm đều thích hợp, hoan hỷ tự tại, tánh hạnh nàng thì trinh chánh, không có tà nhiễm, nàng thường nói lời khả ái, ai cũng thích nghe, thân nàng sáng rạng ai cũng thích nhìn. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Nữ báu xuất hiện. Ðó là điều thứ bảy.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo :

–Như vậy gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có bảy báu xuất hiện. Các ngươi nên biết, khi Như Lai, Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác xuất hiện, Ngài nói pháp bảy giác chi. Những gì là bảy?

–Ðó là Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Ðịnh giác chi, Xả giác chi. Như vậy gọi là pháp bảy giác chi, pháp này chỉ có Như Lai, Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác lúc xuất hiện thế gian mới tuyên nói ra, giống như bảy báu ở trước, cũng lại như vậy, chỉ có lúc nào vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì bảy báu mới xuất hiện mà thôi.

Các ngươi nên biết, Như Lai đã nói pháp bảy giác chi khiến cho các chúng sanh như lý tu hành, tất cả đều được an lạc, lợi ích. Các ngươi hãy nên siêng năng tu học như vậy 

 

PHẬT NÓI KINH LUÂN VƯƠNG THẤT BẢO

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22059)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15908)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14929)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18781)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14344)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13450)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13439)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11718)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13151)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14916)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16065)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10986)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16315)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11775)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17468)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12792)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13581)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12786)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14775)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16243)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13025)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11999)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12658)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12787)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12690)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14028)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14010)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16354)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12289)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14287)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11180)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10930)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13119)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13795)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13062)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12896)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13406)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12600)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10122)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13814)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10136)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13595)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16160)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11868)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12871)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11556)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10697)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10887)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12657)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10978)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12516)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11230)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant