Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Luân Vương Thất Bảo

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12926)
Kinh Luân Vương Thất Bảo

PHẬT NÓI KINH LUÂN VƯƠNG THẤT BẢO

 

Đại Chánh Tân Tu số 0038 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống Tây Thiên, Triều Phụng Ðại phu Thí Hồng Lô Khanh, Truyền pháp Ðại sư Thi Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá Vệ cùng đông đủ chúng đại Bí sô. Bấy giờ đức Phật bảo các Bí sô:

–Các ngươi nên biết, có Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Vương, đã thọ pháp quán đảnh, được địa vị luân vương, oai đức tự tại được mọi người tôn trọng. Lúc vua xuất hiện, ở thế gianbảy báu xuất hiện. Những gì là bảy báu? -Ðó là xe báu, voi báu, ngựa báu, chủ tàng thần báu (cư sĩ báu), chủ binh thần báu, Ma ni báu, nữ báu. Bảy báu như vậy theo vua mà xuất hiện.

Sao gọi là xe báu?

–Ðó là bánh xe bằng vàng có một ngàn căm, tối thượng tuyệt diệu, các tướng tròn đầy, có đại oai lực, kim luân báu này từ không trung hạ xuống, đứng trước cửa cung vua. Bấy giờ vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương thấy xe báu này xuất hiện rồi, trong lòng hết sức vui mừng, liền bảo quan hầu rằng: “Ngươi hãy mau chuẩn bị bốn loại binh để ta du hành”. Khi ấy quan hầu vâng lệnh của vua xong liền chuẩn bị bốn loại binh. Khi đã nghiêm chỉnh rồi, liền đến chỗ vua tâu rằng: “Bốn thứ binh đã chuẩn bị xong, mong đức vua hãy du hành, nay đã đúng lúc”.

Bấy giờ vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương liền từ tòa đứng dậy, sửa lại y phục, đi ra cửa cung, chiếc xe báu ngàn căm ấy đến trước vua, chạy về phía tay mặt của vua. Khi ấy vua du hành bốn biển, chỉ trong nháy mắt mà đã trở về cung vua, do vì công năng thù thắng của xe báu vậy. Này các Bí sô, đó gọi là khi vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì xe báu xuất hiện. Ðó là thứ nhất.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện, lại có voi báu xuất hiện, voi báu có thân tướng thù diệu, hoàn toàn trắng tinh, không có xen tạp, giống như rồng lớn có bảy chỗ đầy đặn viên mãn nơi thân, nó từ phương Bắc cỡi hư không mà đến, đứng trước cung vua. Bấy giờ các quan liêu thấy voi báu rồi, tâu lại đầy đủ cho vua. Vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương thấy voi báu này xuất hiện rồi, trong lòng rất vui mừng, tự suy nghĩ: “Hết sức tốt lành, vô cùng thù thắng, nếu ta cần dùng hãy giữ lấy voi báu, nếu ta cần dùng hãy giữ lấy voi báu này mà dùng”.

Bấy giờ vua bảo các thần rằng:

–Voi báu xuất hiện, các ngươi hãy nên siêng năng gìn giữ để phòng bị lúc ta cần đến.

Khi ấy quân hầu vâng lệnh vua xong, luôn luôn siêng năng giữ gìn, khéo léo tập luyện voi báu, không để sơ sót một tí phòng lúc vua dùng đến.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

-Ngày xưa vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thế gian, bấy giờ cũng có voi báu xuất hiện, nhà vua vào lúc sáng sớm cỡi voi báu ấy du hành bốn biển, ngay tức khắc liền trở về cung. Các ngươi nên biết, voi báu có công năng thắng diệu như vậy.

Này các Bí sô, đó gọi là khi vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì có voi báu xuất hiện. Ðó là thứ hai.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương Ðại Quán Ðảnh xuất hiện, lại có bốn con ngựa báu xuất hiện, các bộ phận trên thân chúng đều tròn đầy, con nào cũng có sắc tướng cực đẹp. Ðó gọi là xanh, vàng, đỏ, trắng, trước cổ sau cổ thật đẹp, giống như Mịch La, nó bước đi rất nhanh, lại khéo điều phục, bốn con ngựa báu này xuất hiện ở cung vua. Khi ấy các quan thấy ngựa báu tuyệt đẹp, hiếm có, liền tâu với vua. Vua Ðại Quán Ðảnh thấy bốn con ngựa báu này rồi, trong lòng rất vui mừng tự suy nghĩ: “Ngựa báu xuất hiện hết sức tốt đẹp, nếu ta cần dùng, chắc chắn sẽ được như ý”.

Vua Ðại Luân Vương lại tuyên bố rằng: “Này hỡi các thần, hãy nên siêng năng giữ gìn, khéo léo luyện tập ngựa báu này trong mọi lúc, khi ta cần dùng thì ta sẽ xử dụng”. Khi ấy các viên quan vâng lệnh của vua, luôn luôn phòng hộ ngựa báu, chờ lúc vua xử dụng.

Này các Bí sô, Ngày xưa có vua Ðại Quán Ðảnh xuất hiệnthế gian, khi ấy cũng có ngựa báu xuất hiện. Nhà vua vào lúc sáng sớm cỡi ngựa báu này chu du bốn biển, ngay tức khắc liền trở về cung. Các ngươi nên biết, ngựa báu ấy có công năng thù thắng như vậy. Này các Tỳ kheo, đó gọi là khi Luân Vương Ðại Quán Ðảnh xuất hiện thì ngựa báu cũng xuất hiện. Ðó là thứ ba.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Chủ tàng thần báu xuất hiện. Bấy giờ kho tàng báu to lớn vững chắc, có nhiều tiền của phú quý, do thần Bảo làm chủ. Khi ấy vị thần chủ kho tàng liền đi đến chỗ vua thưa rằng: “Có một kho tàng lớn, quý báu, có đầy đủ tất cả trân bảo thù diệu, đó là vàng... tất cả vật báu, nếu vua cần dùng tôi sẽ dâng tất cả như ý muốn của ngài, không thiếu vật gì”.

Bấy giờ vua Luân Vương thấy thần Bảo chủ kho tàng xuất hiện, trong lòng rất vui mừng. Vua lại nghe thần Bảo nói rằng: “Vàng ... các báu tất cả đầy đủ, ngài muốn lấy bao nhiêu tùy ý”. Khi ấy, nhà vua liền bảo thần Báu chủ kho tàng rằng: “Nay ngươi có oai lực, thần thông sắc tướng như vậy, có thể làm chủ những kho tàng lớn giấu trong đất, như vàng ... các báu, tất cả đầy đủ, thấy những việc làm như vậy hết sứchy hữu, vô cùng tốt lành, ngươi hãy khéo mà chủ trì. Khi nào ta cần, ngươi sẽ cung cấp, ngoài ra khi ta chưa cần, ngươi hãy khéo mà chủ trì.

Này các Bí sô, các ngươi nên biết các kho tàng che giấu dưới đất này, con người không thấy, nhưng phi nhơn thì thấy. Khi Luân Vương xuất hiện, có vị thần chủ kho tàng tự xuất hiện, giữ gìncung cấp tất cả cho vua. Gọi là khi Luân Vương xuất hiện là có Chủ tàng thần báu xuất hiện, đó là thứ tư.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Chủ binh thần báu xuất hiện, vị chủ binh này có đại trí, thao lược, dõng mãnh, oai đức, sức lực lớn và sắc tướng, tất cả đều đầy đủ, khéo huấn luyện binh chủng, phòng thủ ranh giới của vương quốc, nên không bị địch quân xâm nhiễu. Bấy giờ vị Chủ binh thần báu đi đến chỗ vua, thưa như vầy:

–Ðại vương nên biết, tôi là chủ binh thiện nghệ, gìn giữ đất nước của vua, bất cứ lúc nào, có làm việc gì đều đúng theo ý của vua, không hề thiếu sót. Khi ấy nhà vua thấy Chủ binh thần này xuất hiện, trong lòng rất vui mừng, liền bảo rằng: “Nay ngươi có đại trí lược, dõng mãnh, oai đức, sức mạnh, sắc tướng, có thể làm bất cứ điều gì ở bất cứ lúc nào, khéo điều khiển binh chủng để giữ gìn biên giới đất nước, ngươi thật là bậc hiền thiện, ngươi hãy luôn luôn phụ tá cho ta, tất cả việc làm ngươi hãy phương tiện. Nay ngươi chính là người đại thủ hộ cho vua. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Chủ binh thần báu xuất hiện. Ðó là thứ năm.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Ðại Ma Ni báu xuất hiện. Ngọc Ma Ni báu này rất tối thượng, sắc màu tốt đẹp lạ thường, nó có đầy đủ ánh sáng to lớn viên mãn, ánh sáng ấy cực mạnh, chiếu sáng tất cả, có công đức lớn, ở trong cung vua nếu có ngọc báu này, dù cho đêm tối, không có đèn chiếu sáng, ngọc này phát ra ánh sáng tự nhiên chiếu sáng, giống như ánh sáng mặt trời. Này các Bí sô, xưa kia có vị Ðại Luân Vương xuất hiện thế gian, lúc ấy cũng có ngọc Ðại Ma Ni báu có ánh sáng lớn xuất hiện. Khi ấy nhà vua muốn thí nghiệm khả năng của viên ngọc, liền bảo quan đại thần chuẩn bị gấp bốn thứ binh vào lúc ban đêm du hành trong khu rừng. Bấy giờ quan đại thần vâng theo lệnh vua liền chuẩn bị gấp bốn loại binh, rồi đi đến chỗ vua tâu như vầy: “Bốn thứ binh chủng đã tập hợp, nay đã đến lúc xin vua khởi hành”.

Lúc đó nhà vua liền lấy viên ngọc Ðại Ma Ni báu đặt ở trên ngọn cờ, nhà vua đi đầu tiên, vào trong đêm tối, du ngoạn trong khu rừng. Ánh sáng của viên ngọc chiếu sáng cả một do tuần, bốn thứ binh chủng của nhà vua đều được ánh sáng chiếu soi, như ánh sáng trên trời không có sai khác. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Ðại Ma Ni báu xuất hiện. Ðó là thứ sáu.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có nữ báu cũng xuất hiện, sắc tướng của nàng tuyệt đẹp, thân thể tròn đầy xinh đẹp đệ nhất, các người trong thế gian không ai sánh bằng. Nàng êm dịu, nhẹ nhàng, mềm mại như cây Cán Tức Lê; các lỗ chân lông trên người nàng đều toát ra mùi hương vi diệu giống như bình báu chứa đầy hương thơm, lúc nào cũng phảng phất mùi thơm. Lại nữa, hơi thở ra vào của nữ báu đều luôn luôn có mùi thơm như hoa sen xanh, mọi người đều yêu thích. Như lúc vua đi đâu thì nữ báu theo sau, những điều nàng làm đều thích hợp, hoan hỷ tự tại, tánh hạnh nàng thì trinh chánh, không có tà nhiễm, nàng thường nói lời khả ái, ai cũng thích nghe, thân nàng sáng rạng ai cũng thích nhìn. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Nữ báu xuất hiện. Ðó là điều thứ bảy.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo :

–Như vậy gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có bảy báu xuất hiện. Các ngươi nên biết, khi Như Lai, Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác xuất hiện, Ngài nói pháp bảy giác chi. Những gì là bảy?

–Ðó là Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Ðịnh giác chi, Xả giác chi. Như vậy gọi là pháp bảy giác chi, pháp này chỉ có Như Lai, Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác lúc xuất hiện thế gian mới tuyên nói ra, giống như bảy báu ở trước, cũng lại như vậy, chỉ có lúc nào vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì bảy báu mới xuất hiện mà thôi.

Các ngươi nên biết, Như Lai đã nói pháp bảy giác chi khiến cho các chúng sanh như lý tu hành, tất cả đều được an lạc, lợi ích. Các ngươi hãy nên siêng năng tu học như vậy 

 

PHẬT NÓI KINH LUÂN VƯƠNG THẤT BẢO

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11637)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11964)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11117)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11350)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12564)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10769)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17986)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9951)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10170)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12352)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15344)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14332)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12098)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15370)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10618)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14844)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12689)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19669)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13112)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12672)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12268)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11854)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10905)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11957)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11639)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13627)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9879)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11167)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9083)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12182)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12219)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11484)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19705)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14154)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24611)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10693)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant