Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Vua Văn Đà Kiệt

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12424)
Kinh Vua Văn Đà Kiệt


PHẬT NÓI KINH VUA VĂN ÐÀ KIỆT


Đại Chánh Tân Tu số 0040 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Bắc Lương, Tam tạng Pháp sư Ðàm Vô Sấm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, nước Xá Vệ. Bấy giờ tôn giả A Nan ở chỗ vắng vẻ, tư duy: “Người thế gian ít có người nhàm chán đối với ngũ dục, còn người không biết nhàm chán ngũ dục cho đến lúc chết thì nhiều”.

Tôn giả A Nan vào lúc xế trưa đi đến trước đức Phật, đảnh lễ xong, bạch đức Phật rằng:

–Con ở chỗ vắng vẻ, tư duy rằng: “Người thế gian ít có ai nhàm chán đối với ngũ dục, còn người không biết nhàm chán ngũ dục cho đến lúc chết thì nhiều”.

Ðức Phật bảo:

–Ðúng như lời A Nan nói, người thế gian biết nhàm chán đối với ngũ dục rất ít, nhưng người không biết nhàm chán đối với ngũ dục cho đến lúc chết thì nhiều”.

Ngày xưa có một vị vua tên là Văn Ðà Kiệt, sanh ra từ trên đảnh đầu của mẹ, cho nên có tên là Văn Ðà Kiệt, về sau làm vua Giá Ca Việt. Nhà vua thống lĩnh cả Ðông, Tây, Nam, Bắc. Vua có bảy báu:

1. Xe vàng

2. Voi trắng

3. Ngựa có sắc xanh

4. Ngọc minh nguyệt

5. Vợ là ngọc nữ

6. Vị thánh làm phụ thần

7. Chủ binh thần làm người dẫn đường.

Vua Tát Giá Ca Việt có bảy báu như vậy. Vua là bậc nhân từ hiền lương, tu theo chánh pháp, không làm phiền nhiễu muôn dân. Vua có ngàn người con trai đều là những người đoan chánh, tài cao, dõng mãnh, sức khỏe, bốn phương thiên hạ đều thần phục nhà vua. Ngài làm vua đến mấy ngàn năm. Trong lòng vua tự nghĩ: “Ta có bốn phương thiên hạ, nhân dân thịnh vượng, lúa thóc dồi dào, nhân dân nhiều người giàu có”. Vua lại tự nghĩ rằng: “Ta có ngàn người con trai đều là bậc đoan chánh không ai bằng, tài cao, dõng mãnh, sức lực. Trời đã vì ta mà mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm, thật sung sướng làm sao! Trời nghe tiếng nói của ta, tùy theo ý nguyện của ta liền mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm”. Nhà vua thấy trời mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm nên rất vui mừng, liền cùng nhân dân vui chơi đến mấy ngàn năm. Nhà vua tự nghĩ: “Bốn phương thiên hạ đều thuộc về ta. Ta có một ngàn người con trai, có bảy báu đều ở trước mặt ta. Ta cầu gì cũng được, mong gì cũng thành. Trời đã không bỏ sót ý nguyện của ta, mà lại vì ta mưa tiền bằng vàng, bạc đến bảy ngày bảy đêm”.

Vua Văn Ðà Kiệt nghe ở phương nam có nước Diêm Phù Ðề rất sung sướng, nhân dân thịnh vượng, ý của vua muốn đến đó. Nhà vua mới nghĩ như vậy thì tất cả bảy báu, bốn thứ binh chủng liền cùng lúc bay đến nước Diêm Phù Ðề; nước này rộng hai mươi tám vạn dặm. Nhân dân nước này thấy vua liền đến, đều quy phục làm thuộc hạ. Do đời trước của vua đã làm điều lành cho nên mới được phước như vậy.

Ở tại nước Cù Da Ni mấy ngàn năm, vua lại sanh ý nghĩ: “Ta có một nước lớn ở phương Tây tên là Cù Da Ni , chu vi ba mươi hai dặm. Ta có bảy báu. Trời đã vì ta mà mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm. Ta có ngàn người con trai đều là bậc đoan chánh không ai bằng, tài cao, dõng mãnh, sức lực. Ta có nước Diêm Phù Ðề ở phương Nam chu vi hai mươi tám vạn dặm”. Nhà vua nghe ở phương Ðông có nước Phất Vu Ðãi, nhân dân thịnh vượng, lúa thóc dồi dào. Nước này có sự an vui lớn, ý vua muốn đến đó. Nhà vua mới sanh ý nghĩ như vậy, thì tất cả bảy báu, bốn thứ binh chủng liền đồng phi hành đến đó. Quốc vươngnhân dân nước này đều quy phục, lệ thuộc đức vua. Ðức vua nhân đó dùng chánh pháp để trị nước, như vậy mấy ngàn năm. Vua lại sanh ra ý nghĩ: “Ta có nước Diêm Phù Ðề rộng hai mươi tám vạn dặm, ta có nước Cù Da Ni rộng ba mươi hai vạn dặm, ta có nước Phất Vu Ðãi rộng ba mươi sáu vạn dặm”. Nhà vua nghe ở phương Bắc có nước Uất Ðơn Việt thiên hạ đại lạc, nhân dân thịnh vượng, ý của vua muốn đến nước đó. Ở trong nước đó không có kẻ bần cùng, không có kẻ giàu người nghèo, kẻ mạnh người yếu, không có nô tỳ, sang hay hèn đều đồng nhau. Nay các người quan thuộc của vua cùng ăn lúa thóc tự nhiên, y phục tự nhiên, trang sức các thứ châu ngọc. Vua mới nghĩ như vậy thì tức khắc bảy báu, bốn thứ binh chủng đồng phi hành vào cõi nước Uất Ðơn Việt. Từ xa trông thấy đất đai bằng phẳng, xanh như sắc lông xanh biếc. Nhà vua hỏi một vị thần bên cạnh rằng:

–Các ngươi có thấy đất đai ở đây bằng phẳng, xanh như sắc lông xanh biếc không?

Những vị quan ở bên cạnh thưa rằng:

–Thưa vâng, thần có thấy.

Vua bảo:

–Ðó chính là vùng đất Uất Ðơn Việt vậy.

Vua vừa đến phía trước lại thấy đất đai ngay thẳng trắng như tuyết, vua lại bảo những vị thần ở bên cạnh:

–Các khanh có thấy đất đai ở đây bằng phẳng toàn là màu trắng chăng?

Những vị thần bên cạnh thưa:

–Dạ vâng, thần có thấy.

Vua bảo:

–Vì vậy cho nên đất ở Uất Ðơn Việt tự nhiên sanh thành lúa gạo đã giã sẵn. Các ngươi hãy cùng nhau ăn lúa gạo ấy.

Nhà vua lại vừa đi trước, từ xa trông thấy các cây báu, trăm thứ báu, y phục, vàng bạc, ngọc bích hoàn, anh lạc đều treo trên cây. Nhà vua bảo những vị thần bên cạnh rằng:

–Các ngươi có thấy các cây báu này chăng?

Những vị thần đứng bên cạnh thưa: -Dạ vâng, thần có thấy.

Vua bảo:

–Vì vậy cho nên trăm thứ cây, y phục, cây vàng, cây bạc, cây ngọc bích hoàn, cây anh lạc các ngươi hãy đến đó lấy nó để dùng.

Nhà vua bèn đến trước nước Uất Ðơn Việt, nhân dân ở đó thảy đều quy phục. Nhà vua cai trị Uất Ðơn Việt hằng mấy ngàn năm liền, tự sanh ra ý nghĩ rằng: “Ta có châu Diêm Phù Ðề, có châu Cù Da Ni, có châu Phất Vu Ðãi, có châu Uất Ðơn Việt cả thảy bốn mươi vạn dặm. Ý ta muốn lên núi Tu Di bốn báu, đến cõi trời Ðao Lợi, chỗ ở của Thiên Vương Thích”. Nhà vua vừa mới nghĩ như vậy thì tất cả bảy báu, trăm quan đều phi hành đến đỉnh Tu Di sơn, liền vào cung của Thiên Vương Thích. Trước tiên Ðế Thích từ xa trông thấy vua Văn Ðà Kiệt đi đến, liền đứng dậy nghinh tiếp, nói rằng:

–Tôi thường nghe công đức của ngài nên muốn cùng ngài tương kiến đã lâu rồi. Nay nhơn giả đã đến đây thật hết sức tốt.

Trời Ðế Thích mời nhà vua cùng ngồi và đã nhường nửa tòa cho vua Văn Ðà Kiệt. Vừa ngồi xong, vua Văn Ðà Kiệt quay đầu nhìn hai bên tả hữuthiên thượng thấy có ngọc nữ đứng hầu, cung điện đều làm bằng bảy báu, kim ngân, lưu ly, thủy tinh, san hô, hổ phách, xa cừ. Thấy rồi trong lòng vua liền nghĩ rằng: “Ta có Diêm Phù Ðề, Cù Da Ni , Phất Vu Ðãi, Uất Ðơn Việt trong cung của ta có mưa tiền bằng vàng bạc trong suốt bảy ngày bảy đêm. Vua Văn Ðà Kiệt tự suy nghĩ rằng: “Hãy khiến cho Thiên Vương Thích chết đi. Ta muốn thay ông để cai trị cõi trời này như khi ta cai trị thiên hạ vậy, khoái thay!”.

Nhà vua mới sanh ý nghĩ như vậy, thần túc liền mất, liền bị trở lại nhơn gian, toàn thân đau đớn, khốn khổ kịch liệt, nằm ở trên giường. Tất cả quần thần quan thuộc theo hầu nhà vua, cả thảy đều ở bên giường, hỏi vua rằng:

–Bệ hạ có di chúc gì chăng?

Vua bảo:

–Nếu có người hỏi các ngươi nhà vua có di chúc những điều gì, các ngươi nên nói rằng: Khi còn tại thế nhà vua cai trị bốn châu thiên hạ, có trời mưa tiền bằng vàng bạc trong suốt bảy ngày bảy đêm. Nhà vua có một ngàn người con trai, bảy báu đều có thể phi hành. Vua còn lên trên cõi trời Ðao Lợi, Thiên Vương Thích đứng dậy nghinh tiếp, hỏi thăm, nhường nửa tòa mời ta ngồi. Ðã được như vậy mà ta còn sanh ra ý muốn chiếm chỗ của Thiên Vương Thích, mới sanh ra ý nghĩ ấy liền bị rơi xuống đất, bị bệnh khốn khổ kịch liệt. Ta tự hối hận nói rằng: “Con người cho đến chết vẫn còn chưa biết nhàm chán đối với dục. Người biết nhàm chán đối với dục rất ít. Kinh nói rằng: “Dù trời mưa tiền bằng vàng bạc trong bảy ngày bảy đêm mà thấy chưa vừa lòng. (Ðối với dục) lợi thì ít mà lỗi thì nhiều. Người có trí tuệ hãy suy tư việc này. Ta lại đã được Thiên Vương Thích nhường cho nửa tòa mà vẫn thấy chưa vừa. Người tu hành cầu đạo, được quả Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, cho đến được Phật đạo mới nhàm chán dục mà thôi”.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: “Vua Văn Ðà Kiệt lúc ấy chính là thân của ta vậy”.

Ðức Phật nói như vậy rồi, tôn giả A Nan vui mừng đảnh lễ đức Phật.

 

PHẬT NÓI KINH VUA VĂN ÐÀ KIỆT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15764)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11080)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53658)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12982)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16528)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15405)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19161)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19940)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15554)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15355)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15146)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20334)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23962)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15494)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13037)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20142)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13284)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29026)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11709)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18297)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16647)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13241)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12807)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13253)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12983)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12868)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13006)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13547)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11722)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14249)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17743)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22602)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13449)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14333)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105764)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14608)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19792)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38437)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15529)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34682)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16058)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11343)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15665)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14038)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12827)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13709)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12506)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19386)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13142)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13479)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21612)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17975)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21905)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14212)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16079)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16150)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19115)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24790)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant