Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thiết Thành Nê Lê

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11328)
Kinh Thiết Thành Nê Lê


PHẬT NÓI KINH THIẾT THÀNH NÊ LÊ


Đại Chánh Tân Tu số 0042 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn Sa Môn Trúc Ðàm Vô Lan.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, Kỳ Hoàn A Nan Bân để A Lam. Bấy giờ đức Phật bảo các sa môn rằng:

–Ta dùng thiên nhãn xem thấy người trong thiên hạ, lúc sanh, lúc tử, hoặc đẹp, hoặc xấu, kẻ tôn quý, người hạ tiện. Có người khi chết được sanh vào đường lành, có người thì sanh đường dữ. Con ngườithế gian, thân làm điều ác, miệng nói điều ác, ý nghĩ điều ác, thường ưa nấu nướng, giết hại sinh linh để tế thờ quỷ thần nên khi thân chết phải vào trong địa ngục. Còn người thân thường làm thiện, miệng thường nói lời thiện, ý thường nghĩ điều thiện, sau khi chết liền được sanh lên trời.

Ðức Phật dạy:

–Con người như bọt nước mưa ở trên trời, mưa từ trên trời rơi xuống, cái này bị bể thì cái kia lại thành. Con ngườithế gian lúc sanh, lúc tử mong manh cũng như bọt nước.

Ðức Phật dùng thiên nhãn xem thấy người trong thiên hạ, khi chết thì có người lên thiên đường, có người xuống địa ngục, có kẻ nghèo, có người giàu, có kẻ sang, có người hèn, chính là do con người làm thiện hay làm ác mà ra.

Ðức Phật nói: “Tất cả những việc ấy ta đều biết hết”. Giống như ban đêm trời tối, ở hai bên cửa thành đều có đèn đuốc, người ra kẻ vào có đến vài ngàn vạn người, từ trong bóng tối mà nhìn thì đều thấy kẻ ra người vào trong ánh lửa”.

Ðức Phật dạy:

-Ta dùng thiên nhãn xem thấy người trong thiên hạ, khi chết thì có người lên cõi trời, có người xuống địa ngục. Giống như người từ trong bóng tối thấy ánh lửa mà đi ra đi vào. Giống như người leo lên lầu cao nhìn xuống dưới, có mấy ngàn ngôi nhà, kẻ ấy đều thấy hết.

Ðức Phật dạy:

–Ta thấy người trong thiên hạ, lúc chết có người sanh lên trời, có người xuống địa ngục, giống như người từ trên lầu cao nhìn các ngôi nhà ở dưới.

Ðức Phật dạy:

–Giống như người chèo thuyền trên dòng nước trong, họ đều thấy cá, đá ở trong nước. Ðức Phật dùng thiên nhãn xem thấy người trong thiên hạ, khi chết có kẻ lên thiên đường, có người xuống địa ngục như người nhìn vào nước trong thì thấy cá, đá ở trong đó.

Có một viên ngọc Minh nguyệt, dùng tơ năm màu mà xâu. Người nhìn viên ngọc đều thấy tơ năm màu xâu qua viên ngọc.

Ðức Phật dạy:

–Ta biết người trong thiên hạ, từ đâu mà đến, họ đều do thiện, ác biến hóa mà ra. Như người nhìn viên ngọc vậy.

Ðức Phật dạy:

–Ta thấy người trong thiên hạ, bất hiếu với cha mẹ, không thờ sa môn, đạo nhơn, không kính trưởng lão, không sợ những điều răn cấm của huyện quan, không sợ đời này đời sau, không kinh, không sợ, những người như vậy, khi chết liền đọa vào địa ngục. Họ cùng ra mắt với vua Diêm La, liền bỏ thiện theo ác. Có ngục tốt tên là Bàng. Bàng liền dẫn người ấy đến trước vua Diêm La. Ngục tốt Bàng tâu: “Người này lúc ở thế gian, bất hiếu với cha mẹ, không thờ sa môn, đạo nhân, không kính trưởng lão, không chịu bố thí, không sợ đời này đời sau, không sợ huyện quan. Xin Diêm La trị tội ác người này”.

Diêm La liền gọi người ấy đến trước nói rằng:

–Lúc làm người ở thế gian ngươi không nhớ công ơn cha mẹ nuôi nấng, tránh chỗ nóng, ở chỗ mát, nhờ bú mớm mà được khôn lớn. Tại sao ngươi lại bất hiếu với cha mẹ?

Người ấy thưa với Diêm La rằng:

–Tôi quả thật là người ngu si, kiêu mạn.

Diêm La bảo:

–Tội ác của ngươi chẳng phải do cha mẹ, chẳng phải do trời, chẳng phải do vua chúa, chẳng phải do sa môn, đạo nhân tạo ra, thân người đã tạo ra thì phải lãnh lấy. Ðó là lần hỏi thứ nhất.

Hỏi lần thứ hai:

–Ngươi có thấy, khi người bị bệnh, khốn khổ kịch liệt, ốm yếu gầy mòn, tay chân không cử động được chăng?

Người ấy thưa:

–Quả thật tôi có thấy như vậy.

Diêm La nói:

–Tại sao ngươi không tự cải hối để làm việc thiện?

Người ấy thưa:

–Quả thật tôi là người ngu si kiêu mạn.

Diêm vương nói:

–Tội này chẳng phải do trời, chẳng phải do cha mẹ, chẳng phải do vua chúa, chẳng phải do sa môn, đạo nhân tạo ra, chính thân người đã tạo ra, ngươi hãy lãnh lấy.

Diêm La hỏi lần thứ ba:

–Ngươi có thấy người nam, người nữ trong thế gian lúc già, mắt không thể thấy, tai không thể nghe, phải chống gậy mà đi, từ lúc râu tóc đen nhánh nay trở thành bạc phơ chẳng bằng lúc tuổi trẻ chăng?

Người ấy thưa:

–Tôi thật có thấy người già chống gậy mà đi.

Diêm La hỏi:

–Ngay lúc ấy, tại sao ngươi không tự cải hối để làm việc thiện?

Người ấy thưa:

–Quả thật tôi là người ngu si kiêu mạn.

Diêm La nói:

–Tội này chẳng phải do cha mẹ, chẳng phải do trời, chẳng phải do vua chúa, chẳng phải do sa môn, đạo nhân tạo ra, chính thân người đã tạo ra, ngươi phải thọ lấy.

Diêm La hỏi lần thứ tư:

–Khi ở thế gian, ngươi có thấy người nam, kẻ nữ lúc chết một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, thân thể hư nát, hình mạo bại hoại, bị trùng kiến ăn, bị mọi người ghê sợ. Ngươi có thấy việc ấy, tại sao ngươi không tự cải hối để làm việc thiện?

Người ấy thưa:

–Tôi có thấy việc ấy, quả thật tôi là người ngu si kiêu mạn.

Diêm La nói:

–Khi hành động sao ngươi lại không đoan chánh tâm, đoan chánh miệng, không đoan chánh hành vi của mình? Tội này chẳng phải do cha mẹ, do trời, vua chúa, do sa môn, đạo nhân tạo ra, chính thân người đã làm, ngươi phải thọ lấy.

Diêm Vương hỏi lần thứ năm:

–Khi làm người ở thế gian, ngươi có thấy quan lại khi bắt được người trộm cắp, kẻ sát nhân, kẻ cướp, trói lại tống vào ngục đánh đòn để xử trị, tra khảo chăng? Hoặc đem ra khỏi thành ở giữa đường mà giết đi chăng? Hoặc mổ phanh thây lúc còn sống. Vậy ngươi có thấy việc này chăng?

Người ấy thưa:

–Quả thật tôi có thấy việc ấy.

Diêm Vương nói:

–Tại sao ngươi lại không bố thí làm điều thiện? Khi làm người sao ngươi không làm hạnh chơn chánh, nói lời chân chánh, giữ tâm chân chánh?

Người ấy thưa:

–Tôi quả thật là người ngu si kiêu mạn.

Diêm Vương nói:

–Tội này cũng không phải do cha mẹ, do trời, do vua chúa, do sa môn, đạo nhân làm ra, chính thân người đã tạo ra, vậy ngươi hãy thọ lấy quả báo.

Khi đã tra hỏi xong, Nê Lê Bàng (Ngục tốt) liền dẫn tội nhân đi đến một thành bằng sắt. Ðó là địa ngục thứ nhất tên là A tỳ ma. Thành của địa ngục có bốn cửa, chu vi bốn ngàn dặm, bên trong có một cái nồi đồng lớn dài bốn mươi dặm. Nê Lê Bàng dùng chỉa đâm vào tội nhân rồi bỏ vào nồi đồng. Những nồi đồng như vậy nhiều vô số, bên trong cháy bừng bừng. Những tội nhân từ xa trông thấy thảy đều khiếp sợ kinh hoàng. Những người vào đó như vậy có đến mấy ngàn vạn, đều bị ngục tốt nhốt trong đó, ngày đêm cửa ngục đóng bít, không mở, nên không thể ra ngoài được. Tội nhân ở trong đó đến mấy ngàn vạn năm, nhưng lửa vẫn không tắt, con người cũng không chết. Một thời gian lâu xa về sau, từ xa trông thấy cửa phía Ðông tự mở, các tội nhân đều chạy đến để thoát ra ngoài, vừa chạy tới cửa, cửa liền đóng lại. Các người muốn ra ngoài, lại ở trong cửa cùng nhau đấu tranh muốn được ra ngoài. Một thời gian lâu xa về sau, từ xa trông thấy cửa phía Tây mở ra, các tội nhân đều chạy đến, nhưng cửa lại đóng, tội nhân ở trong cửa lại đấu tranh nhau. Một thời gian lâu xa nữa, bốn cửa thành lại mở ra, con người được ra ngoài, họ tự cho đã được thoát khỏi.

Họ lại đi vào trong địa ngục Cưu Diên thứ hai. Tội nhân vừa đặt chân xuống đất liền bị cháy tiêu, cất chân lên thì thịt lại liền như cũ, có người chạy qua Ðông cũ, có người chạy qua Tây cũ, có người chạy về Nam cũ, có người chạy về Bắc, chung quanh địa ngục đều bị lửa cháy, đến mấy ngàn vạn năm mới hết.

Những người ở trong đó tự cho là đã được thoát khổ, nhưng họ lại vào trong địa ngục Di Ly Ma Ðắc thứ ba. Ðịa ngục này có loài trùng tên là Khuất trác, mỏ như sắt, đầu chân đều đen. Từ xa trông thấy người chúng đều chạy đến bu quanh, rỉa hết xương thịt người ta. Như vậy trải qua mấy ngàn vạn năm mới thôi.

Họ tự cho là đã thoát khỏi, lại liền vào trong địa ngục Sô La Ða thứ tư, trong đó có hòn núi đá bén như dao, mọi người đều chạy lên đỉnh núi, lại có người chạy xuống dưới núi đều muốn được thoát ra, nhưng họ không biết phải chạy hướng nào? Chân họ đều bị lột hết da, vì đất đá giống như dao bén. Như vậy trải qua mấy ngàn vạn năm mới hết, con người tự cho là đã thoát khỏi.

Họ lại vào trong địa ngục A Di Ba Ða Hàng thứ năm. Ơû bên trong đó có gió nóng, khi đã vào đó rồi có tránh cũng không được. Những tội nhân trong đó cầu chết cũng không được, cầu sống cũng không xong. Như vậy thật lâu trải qua mấy ngàn vạn năm mới được thoát ra, những tội nhân trong đó tự cho là đã được thoát khỏi.

Họ lại vào trong địa ngục A Dụ Táo Ba Hằng thứ sáu. Trong địa ngục này đều có rất nhiều cây, chúng rất nhiều gai. Ở giữa trong những cây đó đều có qủy. Tội nhân vào trong ấy, trên đầu con qủy phun ra lửa, trong miệng khạt lửa, trên thân có mười sáu cây gai, từ xa trông thấy người nó hết sức phẫn nộ, lửa phun ra từ mười sáu cây gai này, chúng đâm qua thân thể con người làm cho rách ra để ăn thịt. Tội nhân đều chạy mong được thoát ra ngoài, trong khi chạy lại thường gặp qủy này. Như vậy trải qua mấy ngàn vạn năm mới hết và được ra ngoài. Họ tự cho là đã thoát khỏi.

Họ lại vào trong địa ngục Bàn Tỷ Vụ thứ bảy. Trong đó có loài trùng tên là Thuần. Tội nhân vào trong ấy, bị loài trùng này bay đến, bay vào miệng người, ăn thân thể người. Tội nhân chạy rất gấp nhưng trùng ăn thịt người vẫn không để yên. Tội nhân đều chạy bốn hướng, muốn được thoát ra, nhưng không thể thoát khỏi. Như vậy trải qua mấy ngàn vạn năm mới được thoát ra. Họ tự cho là đã thoát khỏi.

Họ lại vào trong địa ngục Ðọa Ðàn La Nê Du thứ tám. Trong đó có dòng nước chảy, mọi người bị rớt vào trong, hai bên bờ đều có gai nhọn, còn nước thì nóng hơn nước sôi ở nhân gian. Nước sôi sùng sục làm tội nhân đều bị chín nhừ. Họ muốn chạy lên trên bờ, trên ấy lại có quỷ cầm xà mâu đâm vào bụng tội nhân làm cho họ lại rớt vào trong đó, không thể thoát ra, họ đều bị trôi xuống cuối dòng, lại có quỷ chận lại dùng lưỡi câu mà móc, chúng quỷ hỏi rằng:

–Các ngươi từ đâu mà đến?

Nếu hỏi vậy, những ngươi kia đáp:

-Chúng tôi chẳng biết từ đâu đến, và cũng không biết sẽ đi về đâu; chúng tôi chỉ bị đói khát, muốn được ăn uống.

Quỷ đáp:

–Ta cho các ngươi ăn. Nó liền lấy móc câu móc hàm trên và hàm dưới ra, làm cho miệng tội nhân mở rộng, rồi lấy nước đồng chảy đổ vào miệng tội nhân, làm cho gan ruột cháy sạch. Những tội nhân như vậy, cầu chết không chết được, cầu sống không sống được. Những người ấy bình sanhthế gian, khi làm người, do làm nhiều điều hung ác, cho nên cầu thoát mà vẫn không thoát ra. Những người trong địa ngục đều được thoát ra ngoài, họ tự cho là đã được thoát, nhưng lại vào địa ngục thứ bảy. Quỷ hỏi ngược lại:

–Các ngươi đã đi tại sao trở lại ? Họ vào địa ngục thứ năm, lại trở vào địa ngục thứ tư, từ địa ngục thứ tư lại vào địa ngục thứ ba, lại vào ngục thứ hai, rồi trở lại vào địa ngục A tỳ ma thứ nhất? Ðến đó mọi người từ xa trông thấy thành sắt họ đều vui mừng hô lớn “muôn năm” Diêm Vương nghe tiếng hô ấy liền hỏi ngục tốt rằng:

–Ðó là những tiếng gì vậy?

Ngục tốt đáp:

- Ðó là tiếng hô của những người có tội ở trước đọa vào trong ngục.

Diêm La nói:

–Họ đều là những người bất hiếu với cha mẹ, không sợ trời, không sợ vua, không thừa sự sa môn, đạo nhân, không sợ cấm giới.

Diêm La liền bảo mọi người đến trước nói:

–Nếu các ngươi không oán trách lời nói của Diêm La, nay các ngươi đã được thoát khỏi địa ngục, sẽ lại làm con của người ta, phải hiếu thuận, phải tôn thờ người lớn tuổi, phải sợ những cấm giới của đế vương, phải thừa sự sa môn, đạo nhân, giữ tâm đoan chánh, miệng đoan chánh, thân đoan chánh. Con người lúc sống ở thế gian tạo tội nhỏ mà nhẹ, nhưng chết xuống địa ngục thì vừa lớn lại nặng. Khi gặp sa môn, đạo nhân, phải nên tuân theo, vâng thờ đạo của những vị ấy, sẽ chứng được A la hán, làm cho các đường địa ngục đều bị bít lấp.

Diêm La đã nói xong, các người ở trong địa ngục đều được thoát ra ngoài, họ lại bị chết hết ở vùng đất ngoài thành. Những người chết ấy, thân mạng đời trước, lúc làm người tuy ác nhưng có một chút điều thiện, cho nên từ trong địa ngục lại được ra ngoài, đều sanh ở đường lành. Con người từ trong địa ngục thoát ra đều tự giữ tâm chơn chánh, miệng chơn chánh, hạnh chơn chánh, cho nên không còn trở lại trong địa ngục nữa. Con người đã cảm nhận nỗi thống khổ, độc hại, xấu ác trong địa ngục rồi, họ đều tự tư duy để làm việc thiện.

Ðức Phật dạy:

–Con người chết vào địa ngục, dù cho vương hầu, sa môn, đạo nhân cũng phải tương kiến với Diêm La mà thôi. Còn bao nhiêu người khác chỉ theo mọi người mà vào địa ngục. Diêm La là tên của vị vua ở địa ngục vậy.

 

PHẬT NÓI KINH THIẾT THÀNH NÊ LÊ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15781)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11083)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53671)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13000)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16533)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15411)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19174)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19949)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15564)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15360)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15154)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20356)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23970)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15501)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13053)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20158)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13296)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29032)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11717)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18311)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16651)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13255)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12815)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13262)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13002)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12895)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13023)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13556)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11726)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14255)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17752)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22621)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13458)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14347)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105795)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14614)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19804)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38446)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15544)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34704)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16069)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11364)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15678)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14046)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12841)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13724)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12520)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19393)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27043)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13154)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13489)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21624)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17993)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21926)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14219)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16086)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16160)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19132)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24797)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant