Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Cổ Lai Thế Thời

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11888)
Kinh Cổ Lai Thế Thời


PHẬT NÓI KINH CỔ LAI THẾ THỜI


Đại Chánh Tân Tu số 0044 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Mất tên người dịch, phụ lục Ðông Tấn.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Phật du hóa tại Tiên nhân Lộc xứ ở Ba La Nại. Bấy giờ các Tỳ kheo sau khi đã ăn xong, hội tại giảng đường để cùng nhau nghị luận rằng:

–Giả sử có một trưởng giả thực hành bình đẳng. Có vị Tỳ kheo tịnh giới, phụng hành giới chơn chánh, đi vào nhà vị trưởng giả ấy để khất thực, so với người được một trăm cân vàng, cái nào thù thắng hơn?

Có vị Tỳ kheo đáp:

–Người được một trăm cân vàng, ngàn cân vàng nào có ích gì. Hãy suy tư cho kỹ điều này. Vị Tỳ kheo tôn thờ giới, tu hành chơn chánh, thọ nhận sự cúng dường của ông trưởng giả, tôi cho phước đức của ông trưởng giả mới là tối thượng.

Bấy giờ hiền giả A Na Luật cũng ở trong hội chúng, nghe lời thuyết pháp ấy, ngài trả lời rằng:

–Ðâu chỉ có trăm ngàn cân vàng, giả sử châu báu nhiều hơn gấp bội như vậy cũng không bằng sự cúng dường phạn thực của vị trưởng giả cho Tỳ kheo chơn giới. Vì sao như vậy? Nhớ lại kiếp trước của tôi ở nước Ba La Nại, lúc ấy lúa thóc khan hiếm, nhân dân đói kém, tôi phải gánh cỏ đi bán để tự nuôi sống. Lúc đó có vị Duyên giác tên là Hòa Lý đi đến du hóa nước này. Buổi sáng tôi ra khỏi thành muốn đi gánh cỏ, bấy giờ vị Duyên giác đắp y, ôm bát vào thành để khất thực. Ở giữa đường, tôi đang gánh cỏ trở về trong thành thì lại gặp ngài ôm bát không đi ra. Ngài Duyên giác Hòa Lý từ xa trông thấy tôi đi đến, liền tự nghĩ rằng: “Sáng sớm ta vào thành thì người này ra khỏi thành. Nay y gánh cỏ trở về, có lẽ buổi sáng y chưa ăn, vậy ta hãy nên theo sau, đến nhà y để xin được chút gì cho qua cơn đói”. Lúc đó tôi gánh cỏ tự trở về nhà mình rồi thả gánh cỏ xuống đất, quay lại thấy vị Duyên giác đi theo sau tôi như bóng theo hình. Khi ấy tâm tôi suy nghĩ: “Sáng sớm ra khỏi thành ta thấy vị Duyên giác này vào thành khất thực, nhưng lại ôm bát không trở ra, có lẽ ngài chưa được ăn uống gì, ta hãy nhịn ăn để dâng cho ngài”. Tôi liền mang thức ăn ra, quỳ xuống dâng cho ngài để thân ngài được an ổn. Tôi nói:

–Mong trên đạo nhân thương xót mà nhận cho.

Khi ấy vị Duyên giác nói:

–Lúa thóc khan hiếm, nhân dân đói kém, vậy hãy chia cơm này ra làm hai phần, một phần bỏ vào bình bát ta, còn một phần thì ngươi hãy ăn vào. Như vậy mới là đúng pháp.

Tôi đích thân thưa:

–Ðúng vậy, thưa thánh nhân, kẻ bạch y này ở nhà, hễ đốt lửa lên nấu bất cừ vật gì ăn cũng được, từ từ nấu ăn, sớm muộn gì cũng không sao. Xin đạo nhân hãy thương xót nhà con mà thọ nhận cho.

Khi ấy vị Duyên giác kia mới chịu thọ nhận đồ ăn. Nhân công đức này mà ta được bảy lần sanh lên trời làm vua chư thiên, bảy lần ở thế gian được làm người tôn quý. Nhân một lần cúng dường này mà được các quốc vương, trưởng giả, nhân dân, quần thần, trăm quan hễ trông thấy là cúng dường áo quần, đồ ăn uống, giường chõng, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh, những thứ ấy ta không cầu nhưng nó vẫn tự đến. Lúc ta mới sanh ở nhà dòng họ Thích, các kho tàng hiện ra các thứ kim ngân trân bảo không thể kể xiết, và tài vật khác nhiều vô số. Khi ta bỏ nhà, vứt sự nghiệpsa môn, giả sử bấy giờ ta biết được vị đạo nhân Duyên giác ấy đã thành đạo, ta dùng tâm rộng lớn cúng dường thì phước đức không thể đo lường được. Bấy giờ có bài tụng:

“Ta từng đi gánh cỏ

Bần cùng, làm thuê sống

Cúng dường vị sa môn

Duyên giác Hòa Lý.

Nhân đó sanh họ Thích

Gọi là A Na Luật

Ta liền ca và múa

Giỏi trống đờn và sáo.

Bấy giờ thấy đạo sư

Chánh giác hơn cam lồ

Liền phát tâm hoan hỷ

Xuất gia làm sa môn.

Bèn biết được kiếp trước

đời trước đã trải qua

Ở cung trời Ðao Lợi

Ðược bảy lần an ổn.

Ở trời bảy, đây bảy

Cả thảy mười bốn lần

Ở trên trời, thế gian

Chưa từng đến ác đạo.

Biết được người đến, đi

Sanh tử đi về đâu

Tuy trên trời vui sướng

Sao bằng được Thánh đạo?

Nhờ định ý của ta

Tịch nhiên được nhất tâm

Tẩy trừ kết, các cấu

Ðạo nhãn thấy thanh tịnh.

Cho nên mới xuất gia

Bỏ sự nghiệp tại gia

Sự nghiệp đã hiệp thành

Nhờ Phật dạy đầy đủ.

Cũng chẳng thích sự sanh

Cũng không cầu sự tử

Lúc đầu không lựa chọn

Tịch nhiên định ý chí.

Giữa rừng Trúc, Duy Ða

Ở đó ta mạng chung

Ở nơi Trúc thọ hạ

Diệt độ được vô lậu”.

Bấy giờ đức Thế Tôn với đạo nhĩ nghe hết tất cả những điều Tỳ kheo A Na Luật nói về túc mạng (đời trước) cho chúng Tỳ kheo , vốn là quả báo ngài đã đạt được trong những kiếp trước. Ðức Thế Tôn từ phòng tham thiền đi đến giảng đường, ngồi trước Tỳ kheo, Ngài bảo các Tỳ kheo:

–Các ngươi cùng hội họp nơi đây để bàn luận chuyện gì?

Các Tỳ kheo thưa:

–Tất cả chúng con cùng hội họp nơi đây để bàn luận về chỗ quy thú của việc tội, phước, thiện, ác. Hiền giả A Na Luật tự nói về sự vun trồng gốc đức ở đời trước của ngài.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo: -Các ngươi đã nói về sự việc đời quá khứ. Vậy có muốn nghe Như Lai nói về nguồn gốc ở đương lai chăng?

Các Tỳ kheo thưa:

–Xin vâng, bạch Thế Tôn, nay đã đúng lúc đức Thế Tôn nói về pháp đương lai cho các Tỳ kheo nghe. Nghe xong chúng con sẽ phụng trì.

Ðức Phật bảo:

–Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ.

Các Tỳ kheo thưa:

–Xin vâng, bạch Thế Tôn, chúng con mong được nghe.

Ðức Phật bảo:

–Ở đời đương lai, con người sống lâu đến tám vạn tuổi. Nhân dân ở cõi Diêm Phù Ðề này thịnh vượng, ngũ cốc dồi dào. Các tụ lạc của con người sống cách nhau bằng tiếng gà gáy (hai bên cùng nghe). Người nữ đến năm trăm tuổi mới lấy chồng. Chúng sanh lúc ấy chỉ có ba thứ bệnh: bệnh già, đại tiện, tiểu tiện và mong cầu.

Bấy giờ có một vị vua tên là Kha, chủ bốn thiên hạ, làm vua Chuyển luân vương, lấy chánh pháp trị dân, có bảy báu tự nhiên: xe có bánh bằng vàng, voi trắng, ngựa xanh, minh châu, vợ là ngọc nữ, vị thần coi về kho tàng, vị thần coi về binh đội. Nhà vua có một ngàn người con trai dõng mãnh, sức lực, dung mạo thù thắng, hàng phục được binh đội của nước khác. Nhà vua cai trị bốn thiên hạ, không dùng roi, gậy, dao kiếm, lấy chánh pháp để giáo hóa, nhân dân an ổn. Vua có cổ xe lớn làm bằng bảy báu, bánh xe có ngàn cây căm, cao ba mươi hai trượng. Xe này rất cao, oai quang vòi vọi, bên trên xe có treo phan để bố thí tất cả chúng sanh y thực, giường chõng, xe chở hương hoa, đèn đuốc để cúng dường Sa môn, đạo nhân và những kẻ bần cùng. Khi bố thí xong, nhờ đức tin của gia đình, bỏ nước, bỏ ngôi vua, bỏ nhà học đạo, làm sa môn. Khi ấy tộc tánh tử này đã mộ đạo, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp y, đạt được phạm hạnh, tịnh tu vô thượng, cứu cánh Phật giáo, hiện tại tự nhiên thành sáu thần thông, đã chấm dứt sanh tử, việc cần làm đã làm xong, thấu rõ nguồn gốc của danh sắc.

Bấy giờ Tỳ kheo hiền giả ở trong hội, từ tòa đứng dậy, trịch áo vai hữu, quỳ dài chắp tay bạch đức Thế Tôn:

–Ðời tương lai con sẽ làm vua Kha, chủ bốn phương thiên hạ, bảy báu tự nhiên, có ngàn người con trai, lấy chánh pháp cai trị, rộng thí tất cả, rồi xuất gia học đạo, thành Vô trước huệ chăng?

Khi ấy đức Thế Tôn la mắng Tỳ kheo ấy rằng:

–Này gã ngu si kia, hãy nên làm cho một đời được thành đạo đức rốt ráo. Sao lại cầu trôi lăn trong sanh tử mà nói rằng: “Ðời sau của con làm Chuyển Luân Thánh Vương, tham đắm bảy báu, có ngàn người con trai dõng mãnh, rồi sau đó mới vào đạo”.

Ðức Phật bảo Tỳ kheo ấy:

–Ðời đương lai của ngươi sẽ được làm vua Kha, chủ bốn phương thiên hạ, rộng bố thí tất cả, xuất gia thành đạo.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

–Con người ở đời hậu lai tuổi thọ tăng đến tám vạn tuổi. Sẽ có đức Thế Tôn hiệu là Di Lặc Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu là Phật Thế Tôn như ta hiện nay vậy. Chư thiên, Phạm Thích, Sa môn, Phạm chí, ở trên trời, dưới trời chẳng ai mà chẳng quy phục theo Ngài để thọ lãnh đạo giáo. Ngài rộng thuyết pháp giáo hóa bậc thượng, trung, hạ, làm cho họ khéo phân biệt nghĩa lý, tịnh tu Phạm hạnh. Ngài làm cho tất cả được đạo hóa, giống như ta ngày nay vậy. Lời dạy thanh tịnh của Ngài lưu bố cùng khắp trên trời, dưới đất, chẳng ai chẳng thọ lãnh chúng. Chúng Tỳ kheo của Ngài có vô số.

Khi ấy hiền giả Di Lặc ở trong hội này liền từ tòa đứng dậy, trịch áo vai bên phải, quỳ dài chắp tay, đến trước bạch đức Phật rằng: -Thưa vâng, bạch Thế Tôn, đời đương lai của con lúc ấy con người thọ đến tám vạn tuổi, con sẽ làm Di Lặc Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, giáo hóa chúng sanh trên trời, dưới trời như đức Phật hiện nay vậy.

Khi ấy đức Thế Tôn tán thán ngài Di Lặc rằng:

–Lành thay! Lành thay! Hãy thi hành lòng từ nhu thuận rộng lớn để cứu độ vô lượng vô số chúng sanh. Hãy hưng khởi ý muốn này, vì tất cả chúng sanh ở đời đương lai mà tuyên xướng, dẫn dắt, cũng như ta hiện nay vậy. Ðời đương lai ngươi sẽ thành Phật hiệu là Di Lặc Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu là Phật Thế Tôn.

Bấy giờ hiền giả A Nan cầm quạt hầu Phật, đức Phật bảo tôn giả A Nan : -Hãy đem tấm y do tơ vàng dệt thành lại đây. Ta sẽ thưởng cho Tỳ kheo Di Lặc.

Tôn giả A Nan vâng lời, liền mang đến dâng đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn nhận rồi liền đem cho ngài Di Lặc, nói với ngài Di Lặc rằng:

–Hãy nhận lấy pháp y này để cúng dường chúng tăng. Vì sao vậy? Vì các đức Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giácthế gian làm cho con người được nhiều lợi ích, dùng chí đức để cứu độ họ.

Ngài Di Lặc liền lấy y này dâng lên chúng tăng. Bấy giờ ma Ba Tuần trong lòng tự nghĩ: “Sa môn Cù Ðàm vì các Tỳ kheo giảng về đời đương lai. Nay ta muốn đến nhiễu loạn giáo pháp của ngài”.

Ma liền đi đến trước đức Thế Tôn, nói kệ tụng:

“Tôi nghĩ người bấy giờ

Thân mềm mại, tóc mượt

Thân đầy báu anh lạc

Ðầu trang sức ngọc hoa”.

Thế Tôn nói:

–Nay ma Ba Tuần cố ý đến đây muốn não loạn đạo giáo của ta.

Ðức Phật nói kệ:

“Nhân dân thời bấy giờ

Vô trước, đoạn hồ nghi

Cắt đứt lưới sanh tử

Việc làm không thất thoát

Theo Phật Di Lặc dạy

Tu phạm hạnh thanh tịnh”.

Thiên ma:

“Tôi nghĩ người bấy giờ

Thân mặc y ngời sáng

Và xoa hương chiên đàn

Trang nghiêm thân và đầu

Ở thành Kê Ðầu Mạc

Nơi vua Kha trị vì”.

Thế Tôn:

“Người bấy giờ chí thành

Vô ngã, vô sở thọ

Không dùng châu báu lạ

Tâm khôngtham trước

Ở đời Phật Di Lặc

Tu phạm hạnh thanh tịnh”.

Thiên Ma:

“Tôi nghĩ người bấy giờ

Tham của báu, uống, ăn

Thích công việc ca múa

Ưa trống, đờn, cầm sắc

Ở thành Kê Ðầu Mạc

Nơi vua Kha trị vì”.

Bấy giờ đức Phật dùng bài kệ đáp lại ma:

“Kẻ ấy được vô cực

Phá lưới, hết câu thúc

Thiền định, hành bình đẳng

Vui mừng vô sở trước

Ma Ba Tuần nên biết

Lúc đó ngươi không còn!”.

Bấy giờ trong lòng ma Ba Tuần tự nghĩ: “Ðức Như Lai là bậc thần thánh, đã biết chỗ an trụ, hưng khởi và hủy diệt của ta”, nên ma buồn rầu, không vui, xấu hổ mà bỏ đi.

Ðức Phật nói như vậy xong, lúc ấy tất cả đều hoan hỷ

PHẬT NÓI KINH CỔ LAI THẾ THỜI

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22232)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15993)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15011)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18910)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14426)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18597)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14379)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13552)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13533)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11801)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13218)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13640)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13916)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15011)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16144)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11070)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16432)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11876)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17570)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13680)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12834)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14834)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16365)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13116)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12068)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12736)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12873)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12750)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14147)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14088)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16442)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12361)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14369)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11286)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11007)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13174)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13872)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13144)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12983)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13477)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12697)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10220)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13947)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10207)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13676)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16245)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11944)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12954)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11620)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12647)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10774)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10962)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10916)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11856)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12722)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11043)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12598)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11290)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant