Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Ly Thùy

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12046)
Kinh Ly Thùy


PHẬT NÓI KINH LY THÙY


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0047 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Tam tạng Trúc Pháp Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở trong vườn Lộc dã, tại Bà Kỳ Thi, Mục Ma Tỷ Lượng.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Càn Liên ở tại thôn Thiện Tri Thức, nước Ma kiệt. Lúc ấy tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống một mình ở nơi yên tĩnh kinh hành nhưng mắc phải chứng buồn ngủ. Ðức Thế tôn biết tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống riêng một mình ở nơi yên tĩnh để kinh hành nhưng lại bị buồn ngủ.

Bấy giờ đức Thế tôn đã biết tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống riêng một mình ở nơi yên tĩnh để kinh hành nhưng lại bị buồn ngủ rồi, Ngài liền nhập Tam muội chánh thọ Như Kỳ Tương. Nhờ ý tam muội, nhanh như người lực sĩ co duỗi cánh tay trong khoảnh khắc, đức Thế tôn cũng như vậy, Ngài đang ở trong vườn Lộc Dã Bà Kỳ Thi, Mục Na Tỷ Lượng, bổng nhiên biến mất, đi đến thôn Thiện Tri Thức, nước ma Kiệt, đứng trước mặt tôn giả Ðại Mục Càn Liên. Bấy giờ đức Thế tôn xuất định, bảo tôn giả Ðại Mục Càn Liên:

–Này Mục Càn Liên ! Này Mục Càn Liên ! Thầy đang mắc chứng buồn ngủ ?

–Thưa vâng, bạch Thế tôn.

Ðức Phật dạy:

–Vì niệm nào mà gây buồn ngủ thì chớ thực hành tưởng ấy, chớ phân biệt tưởng ấy, chớ có phân biệt nhiều. Như vậy mới lìa được chứng buồn ngủ. Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên, hãy như giáo pháp đã được nghe, như giáo pháp đã được tụng, hãy nên khai triển rộng rãi mà tụng tập. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy như giáo pháp đã được nghe, như giáo pháp đã được tụng, nên rộng nói cho người khác nghe. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy như pháp đã được đọc tụng, như pháp đã được nghe, thì ý phải suy niệm, phải thực hành. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy lấy nước lạnh rửa mắt và dội ướt hết thân thể. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy dùng hai tay xoa lên mép tai. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy đứng dậy đi ra khỏi giảng đường, hãy nhìn khắp bốn phương và hãy nhìn các vì sao. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy ở khoảng đất trống thong thảkinh hành, hãy thủ hộ các căn, ý nghĩ đến các việc phải làm, sau đó khởi đủ các tưởng. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy trở về, không đi kinh hành nữa, trải Ni sư đàn lên trên giường mà ngồi kiết già. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy trở về giảng đường, gấp tư y Uất đa la tăng trải lên giường, gấp y Tăng già lê làm gối, nằm nghiêng hông bên phải, hai chân chồng lên nhau, hãy khởi minh tưởng (tưởng ánh sáng), đừng để loạn ý, luôn luôn khởi tưởng muốn thức dậy. Này Mục Càn Liên, đừng ham lạc thú giường chõng, đừng ham lạc thú nằm ngủ hông bên phải, đừng ham ngủ nghỉ, đừng ham mùi vị cung kính của thế gian. Vì sao vậy ? Này Mục Càn Liên, vì ta không nói rằng : “Tất cả pháp có thể thân cận (hội hợp)”. Ta cũng không nói rằng : “Tất cả pháp không thể thân cận (hội hiệp)”.

Này Mục Càn Liên, vì sao ta nói : “Tất cả pháp không có thể thân cận ?”. Này Mục Càn Liên, ta nói không thân cận với bạch y. Này Mục Càn Liên, nếu thân cận với bạch y thì phải đàm luận cùng họ mà không tụng tập với họ, nhân đàm luận với họ thì có sự nịnh nọt dối trá, kiêu mạn, nhân có kiêu mạn liền có ganh tị, nhân có ganh tị thì không biết được sự tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, nếu không biết sự tịch tĩnh nên xa lìa tam muội. Này Mục Càn Liên, do đó mà ta nói pháp không thể thân cận.

Này Mục Càn Liên, tại sao ta nói pháp thân cận ? Này Mục Càn Liên, hãy đến chỗ vắng vẻ, lấy nệm cỏ làm giường, im lặng không nói, xa lìa các điều ác, lìa bỏ mọi người, thường phải ngồi tư duy. Này Mục Càn Liên, do đó mà ta nói pháp phải thân cận.

Này Mục Càn Liên, nếu vào thôn xóm để khất thực đừng vì cầu lợi dưỡng, đừng vì cầu được cung kính. Này Mục Càn Liên, hãy chấm dứt cái ý cầu lợi dưỡng, cung kính rồi mới vào thôn xóm khất thực.

Này Mục Càn Liên, khi vào thôn xóm khất thực, hãy đừng khởi ý tưởng vào nhà người khác. Vì sao ? Này Mục Càn Liên, nhà cư sĩ có nhiều việc thế tục. Nếu Tỳ kheo khi vào nhà cư sĩ mà không được họ mời mọc, vị Tỳ kheo kia liền nghĩ như vầy : “Ai đã nói gì với cư sĩ này về ta cho nên cư sĩ mới không nói chuyện với ta”. Vị ấy liền có tâm sân hận, vì có tâm sân hận nên liền có cống cao, vì có cống cao nên tâm không tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, vì ý không tịch tĩnh liền xa lìa tam muội.

Này Mục Càn Liên, nếu lúc thuyết pháp đừng nghĩ chuyện được thua, hãy có ý nghĩ là không thắng. Nếu có ý tranh thắng thì liền có nhiều lời, vì có nhiều lời liền có cống cao, do vì cống cao nên có tật đố, nhân vì tật đố nên không tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, vì không tịch tĩnh nên ta nói xa lìa tam muội.

Này Mục Càn Liên, nếu lúc thuyết pháp phải nói lời có ích, phải nói lời quyết định, chớ đừng nói gì khác. Hãy đàm luận như tiếng rống của con sư tử. Như vậy, Này Mục Càn Liên, hãy nên học như vậy.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Càn Liên từ chỗ ngồi đứng dậy, đứng qua một bên, đắp y, chắp tay hướng về đức Thế tôn, bạch đức Thế tôn rằng : “Thưa vâng, bạch Thế tôn ! Thế nào là vị Tỳ kheo đến chỗ cứu cánh, cứu cánh vô cấu, cứu cánh hành phạm hạnh ?”.

Ðức Thế tôn bảo : “Này Mục Càn Liên ! Nếu Tỳ kheo bị bệnh đau đớn, hoặc cảm thọ khổ, cảm thọ lạc, hay không khổ không lạc. Vị Tỳ kheo ấy hãy nên quán sự đau đớn ấy là vô thường, hãy quán nó là bại hoại, hãy quán nó là vô nhiễm, hãy quán nó là tận diệt, hãy quán nó là chỉ (xả), hãy quán nó là chỗ dừng nghỉ. Hãy quán sự đau đớn ấy như vậy. Hãy quán sự đau đớn ấy là vô thường trụ, hãy quán nó là bại hoại, hãy quán nó là vô nhiễm, hãy quán nó là tận diệt, hãy quán nó là chỉ, hãy quán nó là trụ vững. Vị ấy liền không đắm trước thế gian này, vì không đắm trước nên không sợ sệt, nên được Hữu dư Niết bàn. Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, biết rõ về danh sắc. Này Mục Càn Liên, đó là Tỳ kheo đạt đến cứu cánh, cứu cánh vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh hành phạm hạnh.

Ðức Phật nói như vậy, tôn giả Ðại Mục Càn Liên nghe đức Phật dạy như vậy hoan hỷ vui mừng

PHẬT NÓI KINH LY THÙY

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34464)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33327)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43697)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56805)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47342)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39240)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38332)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52708)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36431)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32097)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40204)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43242)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31314)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46468)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36021)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28564)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29064)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31748)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28650)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33178)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 28965)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60791)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39508)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26482)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29506)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37135)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39872)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26714)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42436)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37043)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28144)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28762)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26268)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27043)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26078)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34327)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27655)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30293)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33035)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28344)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 29915)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25354)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21712)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51035)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26518)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28476)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27535)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24196)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27279)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31708)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30001)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27545)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35206)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27302)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29841)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31525)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22900)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 23982)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22861)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26488)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant