Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Ly Thùy

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12050)
Kinh Ly Thùy


PHẬT NÓI KINH LY THÙY


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0047 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Tam tạng Trúc Pháp Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở trong vườn Lộc dã, tại Bà Kỳ Thi, Mục Ma Tỷ Lượng.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Càn Liên ở tại thôn Thiện Tri Thức, nước Ma kiệt. Lúc ấy tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống một mình ở nơi yên tĩnh kinh hành nhưng mắc phải chứng buồn ngủ. Ðức Thế tôn biết tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống riêng một mình ở nơi yên tĩnh để kinh hành nhưng lại bị buồn ngủ.

Bấy giờ đức Thế tôn đã biết tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống riêng một mình ở nơi yên tĩnh để kinh hành nhưng lại bị buồn ngủ rồi, Ngài liền nhập Tam muội chánh thọ Như Kỳ Tương. Nhờ ý tam muội, nhanh như người lực sĩ co duỗi cánh tay trong khoảnh khắc, đức Thế tôn cũng như vậy, Ngài đang ở trong vườn Lộc Dã Bà Kỳ Thi, Mục Na Tỷ Lượng, bổng nhiên biến mất, đi đến thôn Thiện Tri Thức, nước ma Kiệt, đứng trước mặt tôn giả Ðại Mục Càn Liên. Bấy giờ đức Thế tôn xuất định, bảo tôn giả Ðại Mục Càn Liên:

–Này Mục Càn Liên ! Này Mục Càn Liên ! Thầy đang mắc chứng buồn ngủ ?

–Thưa vâng, bạch Thế tôn.

Ðức Phật dạy:

–Vì niệm nào mà gây buồn ngủ thì chớ thực hành tưởng ấy, chớ phân biệt tưởng ấy, chớ có phân biệt nhiều. Như vậy mới lìa được chứng buồn ngủ. Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên, hãy như giáo pháp đã được nghe, như giáo pháp đã được tụng, hãy nên khai triển rộng rãi mà tụng tập. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy như giáo pháp đã được nghe, như giáo pháp đã được tụng, nên rộng nói cho người khác nghe. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy như pháp đã được đọc tụng, như pháp đã được nghe, thì ý phải suy niệm, phải thực hành. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy lấy nước lạnh rửa mắt và dội ướt hết thân thể. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy dùng hai tay xoa lên mép tai. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy đứng dậy đi ra khỏi giảng đường, hãy nhìn khắp bốn phương và hãy nhìn các vì sao. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy ở khoảng đất trống thong thảkinh hành, hãy thủ hộ các căn, ý nghĩ đến các việc phải làm, sau đó khởi đủ các tưởng. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy trở về, không đi kinh hành nữa, trải Ni sư đàn lên trên giường mà ngồi kiết già. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy trở về giảng đường, gấp tư y Uất đa la tăng trải lên giường, gấp y Tăng già lê làm gối, nằm nghiêng hông bên phải, hai chân chồng lên nhau, hãy khởi minh tưởng (tưởng ánh sáng), đừng để loạn ý, luôn luôn khởi tưởng muốn thức dậy. Này Mục Càn Liên, đừng ham lạc thú giường chõng, đừng ham lạc thú nằm ngủ hông bên phải, đừng ham ngủ nghỉ, đừng ham mùi vị cung kính của thế gian. Vì sao vậy ? Này Mục Càn Liên, vì ta không nói rằng : “Tất cả pháp có thể thân cận (hội hợp)”. Ta cũng không nói rằng : “Tất cả pháp không thể thân cận (hội hiệp)”.

Này Mục Càn Liên, vì sao ta nói : “Tất cả pháp không có thể thân cận ?”. Này Mục Càn Liên, ta nói không thân cận với bạch y. Này Mục Càn Liên, nếu thân cận với bạch y thì phải đàm luận cùng họ mà không tụng tập với họ, nhân đàm luận với họ thì có sự nịnh nọt dối trá, kiêu mạn, nhân có kiêu mạn liền có ganh tị, nhân có ganh tị thì không biết được sự tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, nếu không biết sự tịch tĩnh nên xa lìa tam muội. Này Mục Càn Liên, do đó mà ta nói pháp không thể thân cận.

Này Mục Càn Liên, tại sao ta nói pháp thân cận ? Này Mục Càn Liên, hãy đến chỗ vắng vẻ, lấy nệm cỏ làm giường, im lặng không nói, xa lìa các điều ác, lìa bỏ mọi người, thường phải ngồi tư duy. Này Mục Càn Liên, do đó mà ta nói pháp phải thân cận.

Này Mục Càn Liên, nếu vào thôn xóm để khất thực đừng vì cầu lợi dưỡng, đừng vì cầu được cung kính. Này Mục Càn Liên, hãy chấm dứt cái ý cầu lợi dưỡng, cung kính rồi mới vào thôn xóm khất thực.

Này Mục Càn Liên, khi vào thôn xóm khất thực, hãy đừng khởi ý tưởng vào nhà người khác. Vì sao ? Này Mục Càn Liên, nhà cư sĩ có nhiều việc thế tục. Nếu Tỳ kheo khi vào nhà cư sĩ mà không được họ mời mọc, vị Tỳ kheo kia liền nghĩ như vầy : “Ai đã nói gì với cư sĩ này về ta cho nên cư sĩ mới không nói chuyện với ta”. Vị ấy liền có tâm sân hận, vì có tâm sân hận nên liền có cống cao, vì có cống cao nên tâm không tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, vì ý không tịch tĩnh liền xa lìa tam muội.

Này Mục Càn Liên, nếu lúc thuyết pháp đừng nghĩ chuyện được thua, hãy có ý nghĩ là không thắng. Nếu có ý tranh thắng thì liền có nhiều lời, vì có nhiều lời liền có cống cao, do vì cống cao nên có tật đố, nhân vì tật đố nên không tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, vì không tịch tĩnh nên ta nói xa lìa tam muội.

Này Mục Càn Liên, nếu lúc thuyết pháp phải nói lời có ích, phải nói lời quyết định, chớ đừng nói gì khác. Hãy đàm luận như tiếng rống của con sư tử. Như vậy, Này Mục Càn Liên, hãy nên học như vậy.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Càn Liên từ chỗ ngồi đứng dậy, đứng qua một bên, đắp y, chắp tay hướng về đức Thế tôn, bạch đức Thế tôn rằng : “Thưa vâng, bạch Thế tôn ! Thế nào là vị Tỳ kheo đến chỗ cứu cánh, cứu cánh vô cấu, cứu cánh hành phạm hạnh ?”.

Ðức Thế tôn bảo : “Này Mục Càn Liên ! Nếu Tỳ kheo bị bệnh đau đớn, hoặc cảm thọ khổ, cảm thọ lạc, hay không khổ không lạc. Vị Tỳ kheo ấy hãy nên quán sự đau đớn ấy là vô thường, hãy quán nó là bại hoại, hãy quán nó là vô nhiễm, hãy quán nó là tận diệt, hãy quán nó là chỉ (xả), hãy quán nó là chỗ dừng nghỉ. Hãy quán sự đau đớn ấy như vậy. Hãy quán sự đau đớn ấy là vô thường trụ, hãy quán nó là bại hoại, hãy quán nó là vô nhiễm, hãy quán nó là tận diệt, hãy quán nó là chỉ, hãy quán nó là trụ vững. Vị ấy liền không đắm trước thế gian này, vì không đắm trước nên không sợ sệt, nên được Hữu dư Niết bàn. Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, biết rõ về danh sắc. Này Mục Càn Liên, đó là Tỳ kheo đạt đến cứu cánh, cứu cánh vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh hành phạm hạnh.

Ðức Phật nói như vậy, tôn giả Ðại Mục Càn Liên nghe đức Phật dạy như vậy hoan hỷ vui mừng

PHẬT NÓI KINH LY THÙY

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10252)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11528)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11928)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12901)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11341)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52697)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21215)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10588)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19096)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12307)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13209)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14271)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15960)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16713)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17403)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11522)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11474)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20260)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18816)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19420)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12101)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12189)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13742)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13861)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15423)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11298)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17020)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11631)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14938)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12892)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14476)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11543)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18240)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11413)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15723)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18784)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18260)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant