Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Pháp Đúng, Pháp Sai

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12224)
Kinh Pháp Đúng, Pháp Sai


PHẬT NÓI KINH PHÁP ÐÚNG, PHÁP SAI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0048 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, Sa môn An Thế Cao

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy: Một thời Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn Ông Cấp cô độc, nước Xá vệ.

Bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ kheo. Các Tỳ kheo thưa: “Dạ vâng”. Các Tỳ kheo theo đức Phật để nghe dạy.

Ðức Phật dạy: “Các Tỳ kheo hãy lắng nghe ta nói. Có pháp hiền giả, cũng có pháp phi hiền giả. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe cho kỹ, biết cho rõ, suy nghĩ điều này thật kỹ.

Các Tỳ kheo thưa: “Dạ vâng!”. Theo Phật để thọ giáo. Ðức Phật nói rằng: “Này Tỳ kheo! Những gì là pháp phi hiền giả ? Nếu Tỳ kheo thuộc dòng dõi quý tộc, thích đạo, muốn học đạo, nếu có các Tỳ kheo khác đồng học nhưng không phải dòng dõi quý tộcTỳ kheo dòng dõi quý tộc tự kiêu đối với bản thân mình, khinh chê người khác. Ðó là pháp phi hiền giả.

Những gì là pháp hiền giả ? Vị hiền giả nên học thấy chính ta không phải dòng họ tôn quý mà có khả năng đoạn tham dục, đoạn trừ sân hận, đoạn trừ ngu si. Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo không phải nhà thuộc dòng họ tôn quý (thuyết pháp), ta chỉ cần nương vào phương tiện để thọ pháp, theo pháp mà nói, theo điều cốt tủy của chánh phápthực hành, tùy thuận pháp mà thực hành. Nhờ theo vị danh đức ấy để nghe pháp như pháp mà hành tùy thuận chơn thật pháp, không tự khen mình, cũng không khinh người. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo nhan sắc hết sức đoan chánh, các Tỳ kheo khác không bằng, do mình đoan chánh cho nên tự khen mình chê người. Ðó không phải là pháp hiền giả. Bậc hiền giả thì không như vậy. Bậc hiền giả không tự chấp vào sắc đoan chánh của mình mà có thể đoạn trừ được tham, dâm, có thể đoạn được sân hận, có thể đoạn được ngu si.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo tuy không đoan chánh (thuyết pháp), ta chỉ theo pháp ấy hoặc nhiều hay ít, thọ trì, thực hành, liền được ngợi khen, có tiếng. Vậy ta hãy thọ pháp ấy một cách chắc chắn, tùy theo pháp mà hành, không tự khen mình, cũng không chê người. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo khéo nói những lời hay đẹp, còn các Tỳ kheo khác thì không nói được như vậy. Vị ấy nhân khéo nói được những lời hay đẹp nên tự khen mình chê người. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Vị hiền giả học rằng chính ta không phải nhờ lời nói hay đẹp, cũng không phải nhờ biết nói những lời hay đẹp mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si.

Hoặc có vị Tỳ kheolời nói không hay đẹp, lại cũng không khéo nói, nhưng chỉ như pháp thọ giáo, hoặc tùy hành nhiều hay ít, nhờ việc làm đó được cung kính, làm như vậy được đa văn. Vị ấy với pháp này, nhờ thọ trì pháp, thực hành chắc thật, không tự khen mình chê người. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ nghe có một vị Tỳ kheo lớn tuổi, có nhiều tri thức, là bạn hữu giàu có, còn các Tỳ kheo khác thì không bằng. Vị ấy liền theo vị Tỳ kheo lớn tuổi có nhiều tri thức ấy, rồi tự khen mình, tự kiêu ngạo và khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Bậc hiền giả chỉ suy nghĩ, học hỏi rằng “Chính ta không hẳn nhờ theo vị lớn tuổi, cũng không phải nhờ có nhiều tri thức, cũng không nhờ theo người có nhiều phước đức mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo còn nhỏ, cũng không có nhiều tri thức, phước đức cũng ít ỏi, nhưng thọ pháp, muốn tùy pháp hành, hoặc nhiều hay ít, nhờ đó được có tiếng tăm. Vị ấy theo pháp, tùy pháp chơn thật nhưng không tự khen mình, không tự kiêu mạn, không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo biết nghe kinh, có thể thuyết kinh, biết luật, biết rõ và thâm nhập kinh, còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Vị ấy nhờ thâm nhập, thông suốt kinh nên tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó chẳng phải là pháp hiền giả. Bậc hiền giả thì không như vậy. Hiền giả nên học như vầy: “Chính ta không phải nhờ thâm nhập, cũng không phải nhờ thông suốt kinh điển mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si”.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo không có thâm nhập, cũng không có thông suốt kinh điển, chỉ thọ pháp, tùy pháp, chánh cần, tùy pháp hành, nên nhờ đó mà được cung kính, nhờ đó mà được tiếng tăm. Ðó là nhờ trì pháp, tùy pháp, thực hành điều chơn thật, cho nên vị ấy không tự khen mình, không tự kiêu ngạo, cũng không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo cầu khất thực, không nhờ các bạn hữu để cầu khất thực, không quá bảy nhà, ngồi một chỗ, ngày ăn một bữa, sau đó ai cúng cũng không nhận. Còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Do ngày ăn một bữa, sau đó có cúng cũng không nhận, rồi tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả cần phải học: “Ta không hẳn theo hạnh ngày ăn một bữa, sau đó có cúng cũng không nhận mà có thể đoạn trừ được tham dục, đoạn trừ được sân hận, đoạn trừ được ngu si.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo không theo hạnh ngày ăn một bữa, sau đó có cúng không nhận. Vị ấy chỉ thọ pháp, tùy pháp chơn chánh tiếp nhận tùy pháp, nhờ đó được cung kính, nhờ đó được tiếng tăm, pháp này tùy pháp chơn thật, nhưng vẫn không tự khen mình, không tự kiêu ngạo, cũng không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo dùng ba y ở nơi gò mả, còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Nhờ danh tiếng ấy nên tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó chẳng phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Không hẳn ta nhờ dùng ba y này mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si”.

Hoặc có Tỳ kheo không dùng ba y này, nhưng vị ấy chỉ thọ pháp, tùy pháp, chơn chánh tiếp thọ tùy pháp, nhờ đó liền được cung kính, được tiếng tăm. Nhờ pháp này, tùy thuận pháp chơn thật, nhưng vị ấy không tự khen mình, không tự kiêu mạn, cũng không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo ở nơi đất trống hay ở dưới gốc cây, hoặc ở đầm vắng, giữa gò mã, để ngọa cụ nơi đó, còn các Tỳ kheo khác thì không như vậy. Do đó vị ấy tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Không hẳn ta nhờ để ngọa cụ ở nơi đất trống dưới gốc cây, đầm vắng, giữa gò mã mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si”.

Hoặc có Tỳ kheo không có những điều nói trên, nhưng vị ấy chỉ thọ pháp, tùy pháp, chơn chánh tiếp thọ tùy pháp, nhờ đó liền được cung kính, được tiếng tăm. Nhờ pháp này, tùy pháp chơn thật, nhưng vị ấy không tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo đã được đệ nhất thiền, còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Vì được đệ nhất thiền nên vị ấy tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Ðệ nhất thiền, đức Phật dạy, phải tự mình biết điều ấy, thọ trì pháp chơn thật ấy, không tự khen mình, không tự kiêu mạn, không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo được đệ nhị thiền, hoặc được đệ tam thiền, hoặc được đệ tứ thiền, như đã nói về đệ nhất thiền. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo hiểu Không hành ý, hoặc có lúc hiểu Thức hành ý, hoặc có lúc hiểu Phi thường hành ý, hoặc có lúc hiểu Vô hữu tư tưởng hành ý, hữu tư tưởng hành ý. Còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Nhờ đó được tư tưởng vô hữu tư tưởng hành nên tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Vô hữu tư tưởng hành, cũng như hữu tư tưởng hành, đức Phật dạy ta có cái này, thọ pháp, tùy pháp chơn thật nên không tự khen mình, không tự kiêu mạn, không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Ðức Phật bảo: “Này các Tỳ kheo! Ta đã nói về pháp hiền giả, cũng nói pháp không phải hiền giả. Các Tỳ kheo hãy nên tự tư duy. Ðối với pháp không phải hiền giả cũng nên tư duy. Hãy thực hành pháp hiền giả, xả bỏ pháp không phải hiền giả. Hãy thọ hiền giả, tùy pháp, Tỳ kheo nên học như vậy.

Ðức Phật dạy như vậy. Chư Tỳ kheo tiếp thọ và chí tâm hành trì.

 

PHẬT NÓI KINH PHÁP ÐÚNG, PHÁP SAI

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10249)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12231)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28680)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12897)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11340)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12256)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52688)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21201)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19085)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12304)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25828)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13205)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14268)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15956)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13625)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16708)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17400)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13013)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12428)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11521)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11469)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18811)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19414)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12185)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13740)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14885)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14953)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13859)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11295)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17016)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14827)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20040)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13745)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11629)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14932)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14470)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13076)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18236)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11856)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11410)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15712)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12788)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18781)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18257)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant