Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Thọ Tuế

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12623)
Kinh Thọ Tuế


PHẬT NÓI KINH THỌ TUẾ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0050 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy: “Một thời Bà Già Bà ở tại vườn trúc Ca Lan Ðà, nước La Duyệt Kỳ, cùng đông đủ chúng đại Tỳ kheo để thọ tuế”.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Kiền Liên bảo các Tỳ kheo: “Này chư hiền! Vị Tỳ kheo Thọ Tuế thỉnh nguyện: “Xin các tôn giả nói với tôi, dạy dỗ tôi, giáo giới tôi, thương tưởng tôi”. Ðó là lý do thứ nhất. Vì sao vậy ? Này chư hiền! Hoặc có người ương ngạnh, khó dạy bảo, cùng câu hội với pháp ác, thì vị phạm hạnh không thể nói, cũng không giáo thọ, cũng không giáo giới, cũng không thương tưởng kẻ ấy. Ðó là loại người thứ nhất.

Này chư hiền, thế nào là kẻ ương ngạnh, khó dạy bảo, dù cùng câu hội với vị phạm hạnh, nhưng vẫn không được vị phạm hạnh nói chuyện, vẫn không dạy bảo, cũng không giáo giới, cũng không thương tưởng kẻ ấy. Ðó là loại người thứ nhất. Này chư hiền, hoặc có một người tìm cầu cái ác cùng câu hội với ác. Này chư hiền, ta bảo kẻ ấy cùng câu hội với ác, đó là pháp ương ngạnh, khó dạy bảo. Cũng như thế, bị nhiễm dục, sân hận, xan tham, tật đố, không xả, dối láo, dua nịnh, huyền ảo, không hổ, không thẹn, ôm hận, nói lời uất hận, mắng lại Tỳ kheo khiển trách mình, nói cho mọi người biết vị Tỳ kheo đã chỉ trích mình, chê bai lời nói của Tỳ kheo chỉ trích mình. Tất cả lời lẽ đều nói lãng ngoài đề để tránh né, ôm ấp lòng phẫn nộ mà rộng câu hội với ác tri thức, ác bằng hữu, không biết ơn, không báo ơn, đền ơn. Này chư hiền, những người không biết ơn, không báo đền, đó là những kẻ ngang ngược, khó dạy. Do đó, này chư hiền, người có tánh ngang ngược, khó dạy thì dù câu hội với các vị Phạm hạnh, thì các vị ấy cũng không nói chuyện, không dạy dỗ, không khiển trách, không thương nhớ. Ðó là hạng người thứ nhất.

Này chư hiền, Tỳ kheo nên tự suy nghĩ. Này chư hiền, nếu ai có tìm cầu cái ác (dục) cùng câu hội với ác (dục) thì ta không thương người đó. Nếu ta có ác dục, cùng câu hội với ác dục thì người ấy cũng không thương ta. Tỳ kheo hãy quán sát như vậy, đừng có ác dục, nên học như vậy. Cũng như thế, ai bị nhiễm dục, sân hận, xan tham, tật đố, không xả bỏ, dối láo, dua nịnh, hư huyễn, không hổ, không thẹn, ôm lòng sân hận, miệng nói lời sân kết, mắng lại Tỳ kheo khiển trách mình, chê bai lời nói của Tỳ kheo khiển trách mình. Tất cả lời nói đều ngoài đề để tránh né, ôm lòng sân hận, rộng câu hội với ác tri thức và ác bằng hữu, không biết ơn, không báo đền. Này chư hiền, nếu ai vong ơn, không báo ơn, thì ta không thương người ấy, và nếu ta vong ân, không báo ân thì người ấy cũng không thương ta. Tỳ kheo hãy quán sát như vậy. Ðừng là kẻ không báo ơn, nên học như vậy.

Này chư hiền, nếu Tỳ kheo không thỉnh cầu các Tỳ kheo rằng: “Xin các vị nói với tôi, dạy dỗ tôi, khiển trách tôi, thương tưởng tôi”. Ðó là một hạng người. Vì sao ? Này chư hiền, hoặc có một người dễ bảo, cùng câu hội với giáo pháp nên các vị đồng phạm hạnh nói chuyện, dạy dỗ, khiển trách và thương nhớ người ấy. Người ấy là số một vậy. Vì sao ? Này chư hiền, người dễ dạy bảo, cùng câu hội với giáo pháp, mà được các vị đồng phạm hạnh nói chuyện, dạy dỗ, khiển trách, thương yêu. Người đó là số một. Này chư hiền, hoặc có một người không có tìm cầu cái ác (dục), không câu hội cùng ác. Này chư hiền, kẻ ấy vì không có ác dục, không câu hội với ác dục, thì đó là pháp dễ dạy bảo. Cũng như thế, không bị nhiễm dục, không sân hận, không xan tham, tật đố, không dối láo, dua nịnh, hư huyễn, biết hỗ, biết thẹn, không ôm lòng giận, miệng không nói lời hận kết, không mắng lại Tỳ kheo khiển trách mình, không nói với mọi người về Tỳ kheo khiển trách mình, không phỉ báng lời nói của Tỳ kheo chỉ trích mình, không nói ngoài lề để tránh né, không san hận mà lại rộn rãi, không ở chung với ác tri thức cùng ác bạn hữu, không vô ơn mà nhớ ơn. Này chư hiền, vì người ấy cùng tương ưng với giáo pháp. Ðó là này chư hiền, kẻ dễ dạy bảo cùng tương ưng với giáo pháp. Cho nên được các vị đồng phạm hạnh nói chuyện, dạy dỗ, khiển trách và thương nhớ. Kẻ ấy là người số một.

Này chư hiền, Tỳ kheo nên tự suy xét. Này chư hiền, nếu ai không có ác dục, không câu hội với ác dục thì ta thương người đó, và nếu ta không có ác dục, không câu hội với ác dục, thì người đó cũng thương ta. Tỳ kheo nên quán như vậy, không nên ác dục, nên học như vậy. Không nên ác dục, nên học như vậy. Cũng như thế, không bị nhiễm dục, không sân hận, không xan tham, tật đố, không xả bỏ, không dối láo, dua nịnh, biết hỗ, biết thẹn, không sân kết, miệng không nói lời sân kết, không mắng lại Tỳ kheo khiển trách mình, không nói với mọi người vị Tỳ kheo khiển trách mình, không phỉ báng lời nói vị Tỳ kheo khiển trách mình. Tất cả lời nói đều không nói ngoài lề để tránh né, không sân hậnrộng rãi, không câu hội với ác tri thức và ác bạn hữu, không quên ơn mà nhớ báo đền. Này chư hiền, nếu người nào không quên ơn, nhớ báo đền thì ta thương yêu người đó. Nếu ta không quên ơn, nhớ báo đền thì người đó cũng thương yêu ta. Tỳ kheo nên quán sát như vậy. Hãy không quên ơn, nhớ báo đền, nên học như vậy.

Này chư hiền, nếu Tỳ kheo quán sát như vậy: “Ta đang có các dục, cùng tương ưng với ác dục, hay không có ác dục, không tương ưng với ác dục thì chắc chắn có nhiều lợi ích”. Này chư hiền, nếu Tỳ kheo quán sát mà biết được ta đang có ác dục, cùng tương ưng với ác dục thì kẻ ấy sẽ không hoan hỷ. Do đó kẻ ấy mong cầu đoạn trừ dục. Này chư hiền, nếu Tỳ kheo lúc quán sát mà biết ta hiện không có ác dục, không tương ưng với ác dục thì kẻ ấy liền vui mừng thấy mình được thanh tịnh, trong sạch đang hành động trong cảnh giới của đức Phật . Thấy vậy rồi vui mừngtu hành.

Này chư hiền, thí như người có mắt cầm cái gương sáng tự soi mặt mình. Này chư hiền, người có mắt ấy sẽ tự thấy mặt mình dơ dáy nên trong lòng không vui, kẻ ấy muốn rửa sạch chất dơ. Này chư hiền, nếu người có mắt ấy không thấy mặt mình có vết dơ, kẻ ấy liền vui mừng thấy mình được thanh tịnh. Kẻ ấy tự thấy như vậy rồi vui mừngthực hành. Này chư hiền, cũng như vậy Tỳ kheo quán sátbiết mìnhác dục, cùng câu hội với ác dục, kẻ ấy mong cầu đoạn trừ dục. Này chư hiền, Tỳ kheo quán sátbiết mình không có ác dục, không câu hội với ác dục, kẻ ấy liền vui mừng thấy mình được trong sạch, thanh tịnh, đang ở trong cảnh giới của đức Phật. Thấy vậy rồi vui mừngthực hành.

Cũng như vậy bị nhiễm dục hay không nhiễm dục; cũng vậy có sân hận hay không có sân hận; cũng vậy có xan tham tật đố không xả, hay không có xan tham tật đố, không xả; cũng vậy có dua nịnh dối trá hay không có dua nịnh dối trá; cũng như vậy có sự không hỗ, không thẹn hay biết hỗ biết thẹn; cũng vậy có hận kết, để miệng nói lời hận kết hay không có hận kết để miệng nói lời hận kết. Mắng lại Tỳ kheo khiển trách mình hay không mắng lại Tỳ kheo khiển trách mình ? Nói với mọi người về Tỳ kheo khiển trách mình hay không đem nói cho mọi người Tỳ kheo khiển trách mình ? Phỉ báng lời nói vị Tỳ kheo khiển trách mình hay không phỉ báng Tỳ kheo chỉ trích ? Tất cả lời lẽ đều nói ngoài lề để tránh né hay không dùng những lời lẽ nói ngoài lề để tránh né ? Có sân hận hay không sân hận ? Giao kết với ác tri thức cùng ác bạn hữu hay không giao kết với ác tri thức cùng các bạn hữu ? Không biết ơn, không báo ơn hay biết ơn, báo ơn ? Này chư hiền, Tỳ kheo quán sát biết rằng: “Ta là kẻ không biết ơn, không biết báo ơn”. Kẻ ấy trong lòng không vui, liền mong muốn đoạn trừ.

Này chư hiền, nếu Tỳ kheo quán sát biết rằng: “Ta là kẻ không vong ơn biết báo ơn”. Kẻ ấy liền vui mừng thấy mình trong sạch thanh tịnh, đang đi trong cảng giới của Phật Thế tôn, thấy như vậy rồi liền vui thích thực hành.

Này chư hiền, như người có mắt tự thấy mặt mình có bụi dơ, kẻ ấy liền không vui và mong muốn rửa sạch. Này chư hiền, nếu người ấy không thấy mặt mình có bụi dơ liền vui mừng là mình được thanh tịnh. Tự thấy như vậy thì vui thíchtu hành. Cũng vậy, này chư hiền, Tỳ kheo quán sát và biết được mình là kẻ vong ân, không báo ân, kẻ ấy liền không hoan hỷ, liền có ý muốn trừ bỏ. Này chư hiền, nếu Tỳ kheo quán biết là ta không phải là kẻ vong ân, không báo ân, kẻ ấy liền vui mừng cho rằng mình trong sạch thanh tịnh đang đi trong cảnh giới của Phật Thế tôn. Do tự thấy như vậy rồi vui thích tu hành, do vui thích tu hành nên được hoan hỷ, do hoan hỷ nên thân tín hành, do thân tín hành nên biết an lạc, do an lạc nên định ý, do định ý nên biết như chơn, thấy như chơn; do thấy biết như chơn cho nên được nhàm chán xa lìa (?), nhờ nhàm chán xa lìa nên được vô nhiễm, do vô nhiễm nên được giải thoát, do giải thoát nên giải thoát tri kiến, biết như thật rằng: “Sanh đã hết, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sanh”.

Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên nói như vậy, các Tỳ kheo nghe tôn giả Ðại Mục Kiền Liên nói xong, hoan hỷ vui mừng


PHẬT NÓI KINH THỌ TUẾ

 --- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13972)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10741)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10406)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11869)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13527)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33514)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11252)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11526)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17772)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11320)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11747)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11405)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18872)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12461)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11217)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13060)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15625)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11610)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12633)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12548)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13863)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12834)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13202)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12652)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12609)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11665)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12233)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12253)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19688)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11878)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11905)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16730)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12574)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14947)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15981)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12763)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11802)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13047)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16419)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13144)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12389)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11732)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19737)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11070)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11180)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10315)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10883)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9951)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11656)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant