Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Đại Sanh Nghĩa

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12291)
Kinh Đại Sanh Nghĩa


PHẬT NÓI KINH ÐẠI SANH NGHĨA


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0052 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Nhà Tống, Thí Hộ

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại làng xóm Câu Lô cùng đông đủ chúng Bí Sô. Bấy giờ Tôn giả A Nan ở riêng một nơi, vào lúc nữa đêm, trong lòng bỗng sanh nghĩ: “Các pháp duyên sanh, nghĩa lý hết sức thâm sâu, khó mà hiểu được! Chỉ có Phật Thế Tôn đầy đủ Chánh kiến tri mới có thể tuyên thuyết được”. Nghĩ như vậy xong, đến lúc trời sáng, ra khỏi chỗ ở, đi đến chỗ đức Phật. Ðến chỗ đức Phật rồi, đầu mặt lạy dưới chân Ngài, hỏi thăm sức khoẻ xong, đứng qua một bên liền bạch đức Phật rằng:

-Bạch Thế Tôn! Con ở riêng một nơi, vào lúc nữa đêm, trong lòng bỗng suy nghĩ: “Các pháp duyên sanh hết sức thâm sâu khó hiểu”. Cúi mong đức Thế Tôn diễn giảng cho con.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan rằng:

-Ðúng như vậy! Ðúng như vậy! Pháp duyên sanh kia hết sức thâm thâm vi diệu, khó thấy, khó hiểu, lại khó quán xét. Chỉ có các thánh giả có đầy đủ trí thiện xảo mới có thể phân biệt được, chứ không phải người ngu si mà có thể hiểu được. Vì sao vậy? Vì chúng sanh đời này, đời sau chết rồi sanh trở lại, luân hồi như vậy đều không rõ pháp nhân duyên này. A Nan nên biết, các pháp đều do nhân duyên triển chuyển cùng sanh, cho nên mới bị luân hồi không thể chấm dứt. Từ Duyên Sanh, có Lão Tử, do Sanh làm duyên nên có Lão tử, pháp sanh không có thì làm gì có Lão tử? Do đó, duyên của Sanh triển chuyển cùng sanh. Từ duyên của thủy tộc nên sanh ra loài thủy tộc, duyên của loài chim bay cầm thú nên sanh ra chim bay cầm thú, duyên của các loại nên sanh ra các loại, cho đến duyên của loài người nên sanh ra loài người. Do duyên đó cho nên tất cả chúng sanh hỗ tương nhân duyên mà được sanh khởi. A Nan nên biết, pháp sanh này là pháp sanh hư vọng, không có rốt ráo. Tập này, nhân này, sanh này, duyên này nên có Lão tử, do đó Lão tử cũng không rốt ráo.

Lại nữa, pháp sanh lấy gì làm duyên? Lấy pháp Hữu làm duyên, do Hữu này liền khởi ra pháp sanh, pháp Hữu nếu không thì làm gì có pháp sanh? Cho nên pháp Hữu, như trước đã nói, khiến cho các loài triển chuyển cùng sanh, không có chấm dứt. A Nan nên biết, pháp Hữu này là pháp hư vọng không có rốt ráo. Tập này, nhân này, sanh này, duyên này khởi ra pháp Hữu, do đó pháp Hữu cũng không rốt ráo.

Lại nữa, pháp thủ lấy gì làm duyên? Lấy pháp Ái làm duyên. Nhân có pháp Ái liền khởi sanh pháp Thủ, Pháp Ái nếu không có thì làm gì có pháp Thủ? A Nan nên biết, duyên Ái này liền sanh ra sự mong cầu. Vì duyên mong cầu liền có sở đắc, vì có sở đắc nên tâm không quyết định, nên không có nhàm chán và biết đủ; vì trong tâm không nhàm chán biết đủ nên liền sanh ra hỷ tham, vì duyên tham nên liền sanh ra ngã kiến, đã sanh ngã kiến liền có thủ trước, vì duyên thủ trước tâm liền tán loạn, do tán loạn liền sanh ra nói dối, tố tụng, đấu tranh, dao gậy đánh nhau. Do nhân duyên này liền tạo ra các nghiệp bất thiện, các nghiệp như vậy đều do tán loạn mà có sanh ra. Nếu không tán loạn, các nghiệp không sanh. Pháp tán loạn này lấy gì làm duyên? Lấy thủ trước làm duyên. Do thủ trước nên tâm mới tán loạn. Nếu không thủ trước thì làm gì có tán loạn? Pháp thủ trước này lấy gì làm duyên? Lấy ngã kiến làm duyên nên có khởi ra thủ trước. Ngã kiến nếu không có liền không có thủ trước. Pháp Ngã kiến này lấy gì làm duyên? Lấy hỷ tham làm duyên nên có ngã kiến. Hỷ tham nếu không có liền không có ngã kiến. Pháp hỷ tham này lấy gì làm duyên? Lấy nội tâm không nhàm chán tri túc làm duyên. Vì không nhàm chán tri túc liền có hỷ tham. Nếu nội tâmnhàm chán tri túc lấy gì làm duyên? Lấy không quyết định làm duyên. Vì không quyết định nên liền không nhàm chán tri túc. Tâm nếu quyết định liền sanh nhàm chán tri túc. Pháp không quyết định này lấy gì làm duyên? Lấy có sở đắc làm duyên. Vì có sở đắc nên liền không có quyết định. Nếu không sở đắc tâm liền quyết định. Pháp có sở đắc này lấy gì làm duyên? Lấy mong làm cầu duyên. Vì có mong cầu nên liền có sở đắc. Nếu không có mong cầu liền không có sở đắc. Các pháp như vậy điều do Ái và mong cầu hỗ tương làm duyên triển chuyển sanh khởi. Nên biết pháp Ái có hai loại, đo là dục áihữu ái. Do hai pháp này mà sanh ra các tội lỗi. A Nan biết, pháp Ái này là pháp hư vọng nên không rốt ráo. Tập này, nhân này, duyên này sanh ra pháp thủ. Do đó, pháp thủ cũng không rốt ráo.

Lại nữa, pháp Ái lấy gì làm duyên? Lấy pháp thọ làm duyên. Do duyên thọ mà khởi sanh pháp Aùi. Pháp Thọ nếu không có thì làm gì có pháp Ái? A Nan nên biết, pháp Thọ này là hư vọng, nên không rốt ráo. Tập này, nhân này, sanh này, duyên này sanh ra pháp Ái, do đó pháp Ái này cũng không rốt ráo.

Lại nữa pháp Thọ lấy gì làm duyên? Lấy Xúc làm duyên. Do duyên Xúc khởi sanh pháp Thọ. Pháp Xúc nếu không thì làm gì có pháp Thọ? Do đó, nhãn xúc làm duyên bên trong phát sanh ra các Thọ. Ðó là lạc thọ, khổ Thọ, phi khổ lạc Thọ. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên ở bên trong sanh ra các Thọ. Tất cả các Thọ này đều do pháp Xúc lấy đó làm duyên vậy. A Nan nên biết, pháp Xúc này là pháp hư vọng nên không rốt ráo. Tập này, nhân này, sanh này, duyên này làm duyên sanh ra pháp Thọ, cho nên pháp Thọ cũng không rốt ráo.

Lại nữa, pháp Xúc lấy gì làm duyên? Lấy Lục xứ làm duyên. Do duyên Lục Xứ liền có pháp Xúc. Lục Xứ nếu không có thì làm gì có pháp Xúc? A Nan nên biết, pháp Lục xứ này là pháp hư vọng cho nên không rốt ráo

Lại nữa, Lục Xứ lấy gì làm duyên? Lấy Danh Sắc làm duyên. Do Danh Sắc nên liền sanh ra Lục Xứ. Danh Sắc nếu không có thì làm gì có Lục Xứ? Danh Sắc này Sắc phápTâm pháp ... có sự tích tụ vậy, tức là danh Sắc này cùng thức pháp kia hỗ tương làm duyên, hòa hợp mà sanh ra, gọi là Danh Sắc. A Nan nên biết, pháp Danh Sắc là pháp hư vọng nên không rốt ráo. Tập này, nhân này, sanh này, duyên này nên có Lục xứ, cho nên Lục xứ cũng không rốt ráo.

Lại nữa, pháp Danh Sắc này lấy gì làm duyên? Lấy thức pháp làm duyên, do thức pháp nên có Danh Sắc. Thức pháp nếu không có thì làm gì có Danh Sắc? Thức pháp này ban đầu thọ sanh ở trong thai tạng của mẹ, nương vào Yết Lũ Lam. Thức pháp đầy đủ rồi, không có tăng giảm. Vì nhân duyên của thức nên sanh ra các Uẫn. Danh Sắc như vậy viên mãn đầy đủ. Nên biết thức này cùng Danh Sắc kia hỗ tương làm duyên mà được sanh khởi.

Lại nữa, nên biết duyên thức này đó là Danh Sắc. Cho nên thức là duyên của Danh Sắc, Danh Sắc là duyên của Thức. Do vậy mà sanh ra quả khổ, quả khổ đã sanh liền có già chết tương tục lưu chuyển. Do tập này, nhân này, sanh này, duyên này cho nên quả khổ là pháp hư vọng, nên không rốt ráo. Như vậy, do nhân này duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Xứ, Lục Xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ. Như vậy, tập lại kiền tạo ra một khối khổ uẩn lớn.

Ðức Phật bảo:

-Này A Nan, ngươi nay đã biết các ngôn ngữcon đường của ngôn ngữ, không phải ngữ ngôncon đường của không phải ngữ ngôn; đã sanh và con đường của sự đã sanh, hai loại như vậy đều không xa lìa Danh Dắc. Này A Nan, nếu hiểu như vậy tức là trụ nơi cái thấy bình đẳng. Ðó gọi là liễu đạt pháp duyên sanh. Pháp duyên sanh này là pháp căn bản của chư Phật. Là con mắt của chư Phật, đó chính là chỗ quay về của đức Phật.

Khi ấy Tôn giả A Nan tán thán rằng :

-Lành thay, bạch Thế Tôn ! ngài đã khéo nói Phật này, khiến cho chúng con và các Bí Sô đều được lợi lạc.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo tôn giả A Nan rằng :

-Nay ta vì ngươi nói pháp không thọ, ngươi nên lắng lòng mà nghe và thọ ïtrì. Phải tác ý, ghi nhớ, tư duy một cách khéo léo. A Nan biết, lìa bỏ Ngã tướng đó là pháp vô thọ. Vì sao vậy? Vì pháp Ngã nếu có, pháp liền sanh. Vì nhờ hiểu rõ pháp Ngã là không thì làm gì có Thọ? Này A Nan! Pháp Ngã và pháp Thọ cả hai đều đã diệt rồi, liền không sở hữu, trụ vào cái thấy bình đẳng.

Này A Nan! Pháp thọ có ba loại. Ðó là lạc thọ, khổ thọ, phi khổ lạc thọ. Nói lạc thọ là thọ và pháp được thọ, đối với hai loại này, nếu có thể thấy rõ được đó là pháp hoại diệt, liền không có lạc thọ, cho nên không có pháp được thọ. Vì sao vậy? Nên biết lạc thọ là pháp vô thường, lạc thọ đã diệt rồi liền lìa Ngã tướng, ngã tướng đã không có, làm gì có thọ?

Lại nữa, khổ thọ, đó là người thọ và pháp được thọ, cả hai loại này nếu có thể hiểu rõ được là pháp bại hoại liền không có khổ thọ. Cho nên không có pháp sở thọ. Vì sao? Nên biết khổ thọ là pháp vô thường, khổ thọ diệt rồi liền xa lìa ngã tướng, ngã tướng đã không, làm gì có thọ?

Lại nữa, phi lạc thọ cũng lại như vậy. Sở dĩ gọi là thọ vì pháp thọ có hai loại. Nếu có thể hiểu rõ hai loại đó pháp hoại diệt, liền đối với khổ, lạc và phi khổ lạc, ba pháp bình đẳng liền không có thọ. Vì sao như vậy? Vì ba pháp thọ này đều là vô thường, rốt ráo không thật có. Thọ này đã diệt liền lìa ngã tướng, ngã tướng đã không, làm gì có thọ?

Này A Nan! Ý ngươi thế nào? Nên biết các thọ từ Tâm sanh ra, do tâm không chuyển nên bên trong không thọ, vì pháp không thật nên bên ngoài liền không có đối tượng thọ. Cho nên này A Nan, rõ biết như vậy liền an trụ nơi các thấy này rồi liền thấy rõ pháp vô thọ. Pháp vô thọ này là pháp căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ quay về của chư Phật.

Bấy giời A Nan lại tán thán rằng :

-Lành thay, bạch Thế Tôn ! ngài nói pháp này một cách khéo léo ! chúng con nghe rồi tin hiểu, thọ trì.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo ngài A Nan rằng :

-Nay ta nói pháp vô ngã cho ngươi nghe. Các ngươi hãy lắng nghe và hết lòng thọ trì, khéo léo tác ý, ghi nhớ và tư duy như vậy. Này A Nan! Khi đã rõ thọ là vô sở hữu liền lìa ngã kiến, lìa ngã kiến rồi liền trụ vào cái thấy bình đẳng, người đã trụ vào cái thấy này rồi thì đối với các tướng đều bình đẳng, đã rõ vô sanh nên liền được: “Sanh đã hết, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh trở lại nữa”.

A Nan nên biết, ngã kiến không sanh, trụ vào cái thấy bình đẳng, như vậy liền được tâm khéo giải thoát, vô tri, vô kiếnvô sở đắc, lìa các suy nghĩ đối với cái được và cái không được, không có đắc cũng không vô đắc mà rõ biết rốt ráo. Rõ biết như vậy liền đối với ngữ ngôncon đường ngữ ngôn, chẳng phải ngữ ngôn và chẳng phải con đường ngữ ngôn, sự sanh và con đường của sự sanh đều hoàn toàn vô tri, vô kiến. Ðã biết rõ như vậy rồi liền lìa ngã kiến, trụ bình đẳng kiến, rõ biết như thật. Như vậy gọi là đạt được pháp vô ngã. Ðó là pháp căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ quay về của chư Phật.

Khi ấy Ngài A Nan nghe lời Phật dạy lại tán thán đức Phật rằng:

 -Lành thay, thưa Thế Tôn! Ngài đã nói pháp này một cách khéo léo. Chúng con nghe rồi tin, hiểu và thọ trì.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan rằng;

-Ta nay vì ngươi lại tuyên thuyết, ngươi nên lắng nghe và hết sức thọ trì, tác ý một cách khéo léo, nhớ nghĩ khéo léo và tư duy khéo léo như vậy. A Nan nên biết, không có sắc tướng để được lìa các ngã chấp, biết rõ một cách như thật, đã biết rõ rồi, quán tưởng thân này là vật phá hoại, không thật, chẳng đáng yêu mến. Quán sát như vậy lìa các tướng, không sanh ngã chấp. Ngã tướng đã diệt liền rõ thân này là vật phá hoại, không thật, như vậy được trụ bình đẳng kiến. Người trụ kiến này liền đối các uẩn rõ biết đều không, ngã và các tướng làm gì có thấy?

Lại nữa, A Nan nên biết, chỗ ở của thức gồm có bảy loại, không phải chỗ ở của thức gồm có hai loại. Bảy chỗ ở của thức là:

Nếu có sắc, có chúng sanh, vô số thân, vô số tưởng, đó là chỗ ở thứ nhất của Thức.

Nếu có sắc, có chúng sanh, vô số thân mà có một tưởng, đó là trời Sơ thiền, là chỗ thứ hai của Thức.

Nếu có sắc có chúng sanh, một thân mà có vô số tưởng, gọi là trời Nhị thiền, đó là chỗ ở thứ ba của Thức.

Nếu có sắc, có chúng sanh, một thân một tưởng, gọi là trời Tam thiền. Ðó là chỗ ở thứ tư của Thức.

Nếu khôngsắc khôngchúng sanh, nhất thiết xứ kia lìa các sắc tướng, gồm một hư không, gọi là trời không vô biên xứ. Ðó là chỗ ở thứ năm của Thức.

Nếu khôngsắc khôngchúng sanh, nhất thiết xứ kìa xa lìa không tưởng, chỉ gồm một Thức, gọi là trời Thức vô biên xứ. Ðó là chỗ ở thứ sáu của Thức.

Nếu không có sắc, không có chúng sanh, Nhất thiết xứ kia lìa Thức vô biên, hoàn toàn vô sở hữu, gọi là trời Vô sở hữu xứ. Ðó là chỗ ở thứ bảy của Thức.

Này A Nan! Hai loại chẳng phải chỗ ở của Thức là:

Nếu có sắc, có chúng sanh, tức là trời Vô tưởng. Ðó chẳng phải là chỗ ở thứ nhất của Thức.

Nếu không có sắc, không có chúng sanh, đối với Nhất thiết kia, lìa Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng xứ, tức là trời phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðó chẳng phải là chỗ ở thứ hai của Thức.

Ðức Phật dạy:

-Này A Nan! Như vậy, có sắc có chúng sanh, vô số thân, vô số tưởng. Ðó là chỗ ở thứ nhất của Thức. Này các Bí Sô, các người nên như thật biết rõ đối với lúc đi, ngồi, nói năng thường nên xưng tán các pháp môn này. Hãy phân biệt diễn thuyết cho người khác nghe một cách rộng rãi. Như vậy cho đến chỗ ở thứ bảy của Thức và hai pháp môn không phải chỗ ở của Thức cũng lại như vậy, đối với lúc đi, lúc ngồi, lúc nói năng thường xưng dương tán thán những điều chư Phật đã dạy, sanh lòng tin thanh tịnh, như thậtliễu tri. Nếu ai liễu tri thì liền được huệ giải thoát, chứng quả A La Hán.

Lại nữa, A Nan nên biết, có tám pháp môn giải thoát, đó là:

Nếu bên trong có sắc, quán sắc bên ngoài. Ðó là giải thoát thứ nhất.

Nếu bên trong không có sắc, quán sắc bên ngoài. Ðó là giải thoát thứ hai.

Nếu thân chứng, thanh tịnh, giải thoát. Ðó là giải thoát thứ ba.

Nếu được thanh tịnh rồi, lìa các sắc tưởng, quán thấy hoàn toànhư không, không có biên giới. Quán này thành rồi, đó là không vô biên xứ giải thoát thứ tư.

Nếu lìa “hư không vô biên xứ” nên quán Thức, Thức cũng vô biên. Quán này thành rồi, thì đó là Thức vô biên xứ giải thoát thứ năm.

Nếu đã lìa Thức vô biên xứ rồi, nên quán tất cả đều không có sở hữu. Quán này thành rồi thì đó là “Vô sở hữu xứ giải thoát” thứ sáu.

Nếu lìa “Vô sở hữu xứ” rồi, nên quán “phi tưởng phi phi tưởng xứ”. Quán này đã thành, đó là “Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát” thứ bảy.

Nếu lìa “Phi tưởng phi phi tưởng xứ” này rồi, nên diệt thọ tưởng, trụ Tam ma địa (chánh định), vị ấy đã thân chứng rồi, đó là “Diệt thọ tưởng giải thoát” thứ tám.

Như vậy gọi là “Tám pháp môn giải thoát”.

Ðức Phật dạy:

-Này A Nan! Ngươi nay nên biết, trước ta đã nói bảy chỗ ở của Thức, hai chỗ không phải chỗ Thức trụTám pháp môn giải thoát. Này các Bí Sô, như ta nói các ngươi phải thật hiểu rõ, thường nên tùy hỷ xưng tán, lại nên như lý mà tu hành. Nếu ai thông đạt các pháp môn này một cách viên mãn thì được hai thứ giải thoát, chứng quả A La Hán.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kinh này xong, tôn giả A Nan và các Bí Sô đều rất hoan hỷ, tin nhận, vâng làm. 

PHẬT NÓI KINH ÐẠI SANH NGHĨA

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15739)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11040)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53577)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12936)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16467)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15349)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19143)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19897)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15530)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15317)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15121)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20270)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23864)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15438)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13009)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20045)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13247)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28990)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11680)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18249)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16618)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13212)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12779)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13219)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12940)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12841)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12977)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13504)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11677)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14207)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17696)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22555)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13418)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14305)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105699)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14569)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19736)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38386)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15502)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34642)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16025)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11311)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15631)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13996)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12801)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13678)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12477)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19351)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26985)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13103)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13444)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21562)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17936)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21842)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14179)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16044)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16086)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19056)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24730)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant