Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thích Ca Ma Nam Bổn

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12130)
Kinh Thích Ca Ma Nam Bổn


PHẬT NÓI KINH THÍCH MA NAM BỔN 


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0054 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Ngô, nước Nguyệt Chi, Ưu bà tắc Chi Khiêm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại Thích Cơ Sấu, ngồi dưới một gốc cây trong vườn Nê Câu Loại, nước Duy La Vệ Ðâu. Bấy giờ có người họ Thích tên là Ma Nam, đi đến trước đức Phật, lấy đầu mặt lạy sát chân đức Phật rồi bạch đức Phật:

–Con thường nghe đức Phật dạy: “Phải thâu nhiếp tâm ý”. Con nghe đức Phật dạy: “Tâm con người có ba trạng thái: có dâm, nộ, và si”. Từ khi nghe được như vậy đến nay, con thường nhớ trong tâm, con tự suy nghĩ: “Nếu không có trạng thái dâm, tâm ta liền chơn chánh; nếu khôngtrạng thái sân, tâm ta liền chơn chánh; nếu khôngtrạng thái si, tâm ta liền chơn chánh”. Con tự suy nghĩ: “Mình đã thường giữ ba thứ này, ý bất động, do nhân duyên gì vẫn không được giải thoát?’.

Ðức Phật dạy:

–Nếu giải thoát được tâm dâm, tâm nộ và tâm si, vậy do nhân duyên gì mà vẫn còn sống chung với vợ con? Nên còn có tâm tham. Này hiền giả, hãy tự tư duy: “Nay ta tuy có chút khổ, nhưng về lâu sau sẽ được an lạc lớn; cùng ở chung với vợ con, tuy sướng vui trong chốc lát nhưng về sau sẽ hết sức đau khổ. Này hiền giả, hãy biết thế gian vui ít nhưng khổ nhiều”.

Ðức Phật dạy:

–Các Tỳ kheo đắc đạo A la hán biết thế gian vui ít khổ nhiều, cho nên ta cầu Phật đạo chỉ nghĩ thế gian là vui thì ít nhưng khổ nhiều. Khi ta làm Bồ tát, thường nghĩ vui ít khổ nhiều.

Ma Nam nói:

–Chỉ riêng đức PhậtA la háný niệm này sao?

Ðức Phật bảo:

–Này Ma Nam, hãy nghe ta nói rồi để trong tâm: con ngườithế gian, những gì là thú vui của họ?

Phàm có năm thứ dục lạc làm con người hoan hỷ tham đắm: con mắt tham đắm sắc, liền để trong tâm, ngày đêm suy nghĩ, tham đắm sắc đẹp, tai nghe tiếng hay, mũi ngửi mùi thơm, lưỡi thích vị ngon, thân ưa vật mềm dịu, liền đắm trước trong tâm. Vì tham đắm sắc đẹp, cũng vậy đối với năm thứ kia người trong thiên hạ đều tham đắm. Sự tham đắm của người đời đều không ngoài năm thứ này, được mấy người biết lo thoát ra? Người thế gian hoặc làm ruộng vườn để sinh sống, hoặc làm thợ thầy để mưu sinh, hoặc buôn bán ở chợ búa để kiếm sống, hoặc là quan chức để sinh sống, hoặc nuôi súc vật để sinh nhai, hoặc làm thợ vẽ để kiếm sống. Những người ấy nhẫn chịu sự lạnh lẽo, sự nóng bức, sự khổ sở, sự đói, sự khát. Họ đều bị ý tham nên phải nhẫn chịu sự lạnh, sự ấm, sự đói, sự khát, rồi tự oán rằng: “Ta sinh hoạt để sống, trải qua bao nhiêu năm trời, khổ sở muốn chết, nhưng vẫn không kiếm được tiền tài chi cả, vẫn sống với sự khổ lạnh, hoặc bệnh hoạn ốm yếu”.

Ðức Phật bảo:

–Này Ma Nam, đó là sự khổ thứ nhất.

Ðiều thứ hai là trong con người có ý tham dâm, hoặc có người làm ruộng vườn, hoặc có người làm thợ thầy, hoặc có người mua bán ở chợ búa, hoặc có người làm quan lại, hoặc có người nuôi súc vật, hoặc có người làm thợ vẽ. Khi làm việc để sinh sống phải nhẫn chịu sự lạnh, nóng, đói, khát để có tiền tài. Nhờ đó được giàu có nhưng lại ôm lòng lo sợ huyện quan lấy hết tiền tài, hoặc sợ lửa cháy thiêu hết tiền tài, hoặc sợ lúc đi ghe, ghe chìm làm mất hết tiền tài, hoặc sợ giặc cướp, cướp hết tiền tài, hoặc sợ lúc mua bán đổi chác làm hết tiền tài, hoặc sợ những người thân thuộc nghèo khổ dùng thuốc độc để hại họ, hoặc bị con ruột làm tiêu hết tiền tài. Người ấy thường sống trong lo âu, ngày đêm ôm lòng lo sợ không phút nào ngơi. Trong đó lại có người đang cất giữ tiền tài thì hoặc gặp quan lại (chiếm đoạt), hoặc bị lửa cháy nước trôi, hoặc mua bán vay mượn tiền tài không trả, hoặc đem chôn dấu trong đất nay quên mất chỗ, hoặc bị vu khống, hủy báng làm cho mất hết, hoặc có con ruột tiêu hết tiền tài của cha mẹ. Người ấy tự nghĩ: “Từ lúc còn nhỏ ta đã mưu sinh, phải nhẫn chịu sự lạnh, nóng, đói, khát hoặc cần khổ để kiếm ra tiền, nay lại bị mất hết. Do đó nhớ nghĩ, lo sầu nên bị bệnh, hoặc bị chết, đều do tiền tài gây ra. Những việc ấy đều do ý tham ngũ dục mà ra. Ðó là khổ thứ hai.

Ðiều thứ ba là người thế gian vì có tiền của nên cha tranh với con, anh tranh với em, chồng tranh với vợ, hoặc bằng hữu tri thức tranh chấp nhau, hoặc nội ngoại các gia đình tranh chấp nhau, sau lưng nói xấu lẫn nhau. Các thứ ấy đều do tham dục lạc mà ra. Người thế gian nhân vì tiền tài mà vua đánh với vua, đạo nhân đánh với đạo nhân, điền gia đánh với điền gia, công sư đánh với công sư, do vì tiền tài nên dùng miệng chửi nhau, dùng gậy đánh nhau, dùng dao chặt nhau, hoặc làm cho bị thương, chết chóc lẫn nhau. Tất cả đều do lòng tham mà ra. Ðó là khổ thứ ba.

Ðiều thứ tư là người thế gian đi theo quân đội nhận tiền lương của quan phải đi chiến đấu, chẳng biết sống chết lúc nào, do lòng tham nên mới tòng quân, vì lãnh tiền của quan cho nên không thể dừng lại, phải chiến đấu, hoặc bị thương ở đầu, hoặc bị cắt đầu, hoặc bị thương ở tay, hay bị đứt tay, hoặc bị thương ở chân hay bị cắt chân, lần hồi đưa đến sự mất mạng. Ðó đều do tham lam mà ra. Ấy là khổ thứ tư.

Ðiều thứ năm là người thế gian có ý tham, ban đêm khoét tường nhà người ta để ăn trộm, hoặc cướp của người ta ở giữa đường, công pháp thành quách của người ta nên bị quan bắt được, hoặc chặt đầu, hoặc chặt tay, hoặc chặt chân, hoặc phanh thây, hoặc lóc thịt, hoặc dùng lửa đốt, hoặc lấy chày lớn đập bể trán, hoặc chém ngang lưng. Những thứ ấy đều do lòng tham mà ra. Ðó là khổ tứ năm.

Người thế gian vì tiền tài mà dối láo nhau, miệng cũng dối láo nhau, thân cũng dối láo nhau, ý cũng dối láo nhau. Bấy giờ tự họ cho đó là việc cần làm, không có tội lỗi gì cả, không biết sự tai ương độc hại của nó, về sau phải vào địa ngục. Trong đó nếu hiền giả hay Sa môn tự tư duy năm lạc của thế gian vui nhiều hay sự khổ não ưu sầu nhiều?

Ðức Phật bảo:

–Này Ma Nam, khi ta còn làm Bồ tát thường nghĩ thế gian thì vui ít mà khổ não lại nhiều, do đó mà ta cầu đạo Vô vi. Nếu có người tham dục cho rằng: “Thế gian là vui”, vì họ đều không biết con đường sanh tử. Nếu thế gian có vị tâm ý hiền thiện, có chí vô tham, lại muốn dạy cho con người chớ có tham dục. Ðó là vị Ðại đức tối thượng.

Ðức Phật bảo:

–Này Ma Nam, ta thường đến Vương Xá có một hòn núi tên là Thiếc Ðề Ban Lãm A Ðọa Phu Sở Phái Thí. Ta thấy các Ni Kiềnhành giả xõa tóc, có hành giả còng lưng ngồi ở dưới đất, nằm ở dưới đất, thân thể không có y phục, họ đều mặc da nai. Ðức Phật từ xa trông thấy, đến phía trước nói với các Ni Kiền: “Do nhân duyên gì mà khiến các ông xõa tóc, do nhân duyên gì mà các ông ngồi, nằm ở dưới đất, cũng không mặc áo quần, tự làm sự độc hại như vậy?

Các Ni Kiền trả lời đức Phật:

–Ðời trước chúng tôi làm ác như thế nên mới khiến đời này bị khốn khổ như vậy, do hành vi ác chưa hết nên chúng tôi mới làm như vậy.

Ðức Phật nói:

–Do nhân duyên gì mà các ngươi nghe và biết được việc này? Vậy có phải theo người ta mà nghe biết được việc đã làm ở đời trước chăng? Hay là tự biết?

Các Ni Kiền đáp:

–Chúng tôi cũng không biết, cũng không nghe, cũng không nhờ ai dạy chi cả.

Ðức Phật bảo:

–Nếu dùng sự khổ hạnh này mà thoát được sanh tử chăng? Các ngươi cũng không nghe người ta nói, cũng không nghe thầy dạy như vậy. Khi không mà tự chuốc lấy sự khốn khổ. Vậy hãy bỏ việc làm ấy, đi đến mà tôn thờ Phật đạo.

Ðức Phật bảo:

–Ta chỉ tiếc cho các ngươi, hoặc thân suy nghĩ, hoặc con cháu đời sau đều bắt chước việc làm này của các ngươi.

Các Ni Kiền đều tức giận, đức Phật bảo rằng:

–Vua Bình Sa Vương tại sao lại cho Sa môn Cù Ðàm này truyền đạo trong nước?

Ðức Phật bảo các Ni Kiền:

–Nếu các ngươi có thể ngồi ngay thẳng trong bảy ngày bảy đêm, không ăn uống, không nói chuyện, như vậy là vui chăng? Hay nhà vua có cung điện, kỷ nhạc là vui?

Ni Kiền nói:

–Này Sa môn Cù Ðàm, chúng tôi vui.

Ðức Phật nói:

–Sao gọi là vui? Vua Bình Sa trong nước vì sao lại không vui?

Ni Kiền thưa:

–Này Sa môn Cù Ðàm, chúng tôi ít lo buồn cho nên vui hơn vua Bình Sa.

Ðức Phật nói:

–Này các Ni Kiền, vua Bình Sa có ý dâm, có ý nộ, có ý si, cũng muốn hàng phục các quần thần, cũng muốn hàng phục các dân chúng bên ngoài, ngày đêm suy nghĩ: “Phải trừng trị ai? Phải trói buộc ai?”.

Ðức Phật nói:

–Người có lòng dâm cũng sẽ tự sát, cũng muốn sát người khác. Người có lòng sân hận cũng tự sát, cũng muốn giết người khác. Người si mê cũng sẽ tự sát, cũng muốn giết người khác.

Các Ni Kiền đều đến trước đức Phật thưa rằng:

–Chúng tôi không có trạng thái dâm, cũng không có trạng thái sân, cũng không có trạng thái si, vậy có thể làm Sa môn được chăng?

Ðức Phật bảo:

–Hãy trở về báo cho cha mẹ các ngươi biết.

Các Ni Kiền thưa:

–Chúng con bỏ nhà học đạo, đều được sự đồng ý của cha mẹ rồi.

Ðức Phật dạy:

–Vậy các ngươi hãy quy y, thọ trì năm giới.

Các Ni Kiền đều thọ năm giới:

1- Không sát.

2- Không trộm.

3- Không xâm phạm phụ nữ nhà người khác.

4- Không dối láo.

5- Không uống rượu.

Các Ni Kiền thọ trì năm giới, mặc áo, búi tóc lên, giữ chánh hạnh. Ai nấy đều trở về nhà của mình.

Ðức Phật bảo Ma Nam:

–Nếu nghe qua ý dâm, ý nộ, và ý si này, hoặc cho rằng ta thọ trì lời Phật dạy, hoặc suy tư chính chắn về năm điều này, vậy có nên tranh giành với người thế gian chăng?

Ma Nam thưa:

–Con sẽ trở về suy tư, đọc tụng kinh điển này, ngày mai sẽ đến chỗ đức Phật.

Ma Nam đến phía trước đức Phật đảnh lễ rồi đi. 

PHẬT NÓI KINH MA NAM BỔN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11353)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10770)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17989)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11730)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9953)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10172)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15347)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12109)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12007)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12416)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11187)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12558)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12694)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16581)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19673)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12271)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11864)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13530)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11959)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11848)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11642)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12770)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14524)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12617)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12902)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11169)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13055)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10315)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15319)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12221)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14275)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19708)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14157)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24613)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10694)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant