Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Khổ Ấm Nhân Sự

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11523)
Kinh Khổ Ấm Nhân Sự


PHẬT NÓI KINH KHỔ ẤM NHÂN SỰ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0055 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Sa môn Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở trong vườn Ni Câu Lâu, thành Ca Duy La Bà, Thích Ky Ðề (dòng sát Ðế Lợi). Bấy giờ Thích Ma Ha Năng Cừ, sau buổi trưa thung dung đi đến chỗ đức Thế Tôn. Khi đến xong đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, ngồi qua một bên. Thích Ðại lực sĩ (Thích Ma Ha Năng Cừ) ngồi qua một bên xong, bạch đức Thế Tôn:

–Như những pháp mà đức Thế Tôn dạy con đều biết hết. Ðó là ba ý niệm trói buộc: ý dâm trói buộc, ý sân hận ngu si trói buộc. Như vậy, những pháp mà đức Thế Tôn dạy con đều biết. Nay đây con đã sanh sự dâm dục dính mắc nơi ý mình, đã sanh sự sân hậnngu si dính mắc nơi ý mình. Cho nên, bạch đức Thế Tôn, con đã nghĩ như vầy: “Ta có pháp gì chưa chấm dứt mà khiến ta sanh ra dâm dục đắm trước nơi ý? Sanh ra sự sân hận, ngu si đắm trước nơi tâm ý?”.

Ðức Phật dạy:

–Này Ðại lực sĩ, pháp chưa chấm dứt, khiến cho người ở tại gia cũng không học đạo, không tin thích việc xuất gia, bỏ gia đình. Này Ðại lực sĩ, nếu pháp này chấm dứt thì ngươi cũng muốn ở tại gia, chắc chắn ngươi có thể tin thích xuất gia, bỏ nhà học đạo. Này Ðại lực sĩ, pháp ấy vì chưa chấm dứt cho nên mới khiến ngươi ở tại gia, không tin thích xuất gia, bỏ nhà học đạo.

Bấy giờ Thích Ðại lực sĩ từ tòa đứng dậy, đứng qua một bên, đắp y, chắp tay hướng về đức Thế Tôn bạch rằng:

-Như vậy, nay con đối với đức Thế Tôn có sự tín thích, cúi mong đức Thế Tôn khéo vì con thuyết pháp. Nhờ thấy pháp mà chấm dứt được nghi ngờ.

Ðức Phật bảo:

Này Ðại lực sĩ, có năm dâm dục, ái niệm, ái sắc, gần với dâm, nhiễm trước: mắt biết sắc, tai biết tiếng, mũi biết mùi, lưỡi biết vị, thân biết nhiễm trước vật mịn trơn. Ở trong các thứ ấy mà tự vui thích, ái lạc mùi vị, vui thích trong đó. Như vậy, này Ðại lực sĩ, ở trong cái khí vị dâm có nhiều bại hoại. Thế nào, này Ðại lực sĩ, đối với dâm có nhiều bại hoại? Này Ðại lực sĩ, nếu người con nhà dòng dõi học tập nghề nghiệp khéo léo để tự bảo tồn mạng sống: hoặc cày ruộng, hoặc mua bán, hoặc sao chép sách, hoặc học số, hoặc học toán, hoặc học in ấn, hoặc học thơ, hoặc học làm đồ gốm, hoặc dạy học, hoặc được vua chiêu mộ. Những người ấy bị sự lạnh buốt bức bách, sự nóng lạnh thiêu đốt, phải nhẫn chịu sự đói khát dày vò, bị muỗi mòng, chí rận chích đốt, họ mong cầu tiền tài. Người con nhà dòng dõi kia, như vậy, khởi ra việc làm như vậy, siêng năng làm việc như vậy, nhưng vẫn không thể kiếm ra tiền. Kẻ ấy liền ưu sầu, không vui, khóc lóc, tự đánh, tự đập thân mình, tăng thêm sự ngu si, siêng năng làm việc mà không có kết quả.

Nếu người con nhà dòng dõi kia khởi ra như vậy, tạo tác như vậy, siêng năng làm việc như vậy, kẻ ấy được nhiều tiền tài. Khi được tiền tài rồi liền giữ gìn đừng cho tiền tài này bị vua chiếm đoạt, đừng để giặc cướp, đừng để lửa cháy, đừng để hư mục, làm lợi, đừng để bị thất lợi. Kẻ ấy gìn giữ tiền của như vậy nhưng vẫn bị vua chiếm đoạt, giặc cướp, lửa cháy, bị tiêu hủy, làm lợi bị thất lợi. Kẻ ấy liền ưu sầu, không vui, khóc lóc, tự đánh, tự đập thân mình, chỉ thêm sự ngu si.

Lại nữa, sự ưa thích lâu dài chắc chắn sẽ bị bại hoại. Do đó, này Ðại lực sĩ, hiện thân đời này là đại khổ ấm. Nhân vì dâm nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, chính nhân duyên của dâm này, này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân vì dâm đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Nhân vì dâm mà mẹ tranh với con, con tranh với mẹ, cha tranh với con, con tranh với cha, anh tranh với em, em tranh với anh. Họ đấu tranh với nhau: mẹ nói con sai, con nói mẹ sai, cha nói con sai, con nói cha sai, anh nói em sai, em nói anh sai. Huống chi là đối với người ngoài?

Này Ðại lực sĩ, đó là khổ ấm hiện nay vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Này Ðại lực sĩ, nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, do đó vua tranh với vua, Bà la môn tranh với Bà la môn, cư sĩ tranh với cư sĩ, giặc cướp tranh với giặc cướp, thợ thuyền tranh với thợ thuyền. Họ đấu tranh với nhau tạo ra đủ thứ dụng cụ để chiến đấu. Hoặc dùng tay đánh, hoặc dùng đá ném, hoặc dùng dao đâm, gậy đập, trong đó có người chết, hoặc khổ gần chết. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại này. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, cho nên mới mặc áo giáp, mang cung tên, mang áo giáp bằng da, cầm dao thật bén, vây nhau mà đánh. Trong lúc đó hoặc dùng voi để đấu, hoặc dùng ngựa, hoặc dùng xe, hoặc dùng bộ binh, hoặc dùng đàn bà, hoặc dùng đàn ông, trong lúc đó hoặc có người chết, hay khổ gần chết. Ðó chính là, này Ðại lực sĩ, khổ ấm hiện tại. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, cho nên mới mặc áo giáp, mang cung tên, mang áo giáp bằng da, cầm dao thật bén, đi đến thành thật cao ý muốn cong phạt. Những kẻ ấy trong lúc đó, hoặc thổi vào vỏ ốc (thổi tù và), hoặc đánh trống, hoặc dùng tiếng kêu gọi, hoặc dùng chày sắt, hoặc dùng xoa, hoặc dùng kích, hoặc dùng bánh xe bén, hoặc dùng tên bắn lẫn nhau, hoặc xô đá chạy loạn xạ, hoặc dùng nỏ, hoặc lấy nước đồng sôi mà đổ, trong đó có người chết, hay khổ gần chết. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện nay vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, đi đến thành ấp của vua, hoặc xuyên qua tường, phá kho, hoặc ăn cắp đồ vật của người khác, hoặc đánh hoặc chận đường của người khác, phá thành người khác, phá thôn, giết người, kẻ ấy bị quan Hữu Ty bắt được hành xử đủ điều khổ sở, hoặc chặt tay, hoặc chặt chân, hoặc cắt tai, hoặc xẻo mũi, hoặc cắt lưỡi, hoặc bứt búi tóc, hoặc bứt tóc, hoặc bứt cả tóc và búi tóc, hoặc bỏ vào trong hòm, hoặc lấy áo phủ lại rồi giết, hoặc lấp cát đá lên trên, hoặc phủ cỏ lên trên, hoặc bỏ trong miệng con lừa bằng sắt, hoặc bỏ trong miệng con sư tử bằng sắt, hoặc bỏ vào trong cái chảo bằng đồng, hoặc bỏ trong chảo bằng sắt, hoặc cắt ra từng đoạn, hoặc dùng dao bén đâm vào hai tay, hoặc nằm trên giường bằng sát nóng, hoặc dùng dầu sôi mà rưới, bỏ vào cối lấy chày sắt mà giã, hoặc cho rắn cắn, hoặc lấy gậy đập, hoặc dùng cây phan, hoặc dẫn đến dưới cây nêu lấy dao cắt đầu. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, tạo thân khổ hạnh, miệng, ý khổ hạnh. Lúc ấy hoặc bị tai hoạn bệnh khổ, nằm ở trên giường, nằm ở trong bóng mát, thân bị bệnh, cực khổ, đau đớn, không vui, mạng sống muốn chấm dứt. Kẻ ấy thân hành khổ hạnh, miệng, ý hành khổ hạnh, đến lúc mạng chung bị treo ngược hai chân lên trời, đầu chúc xuống đất, như lúc hoàng hôn, mặt trời muốn lặn xuống ngọn núi lớn, xuống giữa ngọn núi lớn thì bóng hòn núi ấy ngã dài xuống dưới đất cũng như vậy. Ðó là kẻ kia thân hành khổ hạnh, miệng hành khổ hạnh, ý hành khổ hạnh, đến lúc mạng chung bị dốc ngược đầu xuống đất. Kẻ ấy nghĩ như vầy: “Thân ta khổ hạnh, miệng khổ hạnh, ý khổ hạnh này bị treo ngược đầu dưới đất bởi ta vốn không thực hành, vốn không làm phước, ta chỉ làm điều tội ác. Vì thích làm ác, tham lam, làm điều hung bạo, không làm hạnh phước, không làm hạnh thiện, không làm chỗ để sau quay về, chắc chắn phải đọa vào ác thú, lúc đó liền có sự thay đổi, hối hận. Thay đổi hối hận rồi, vì sanh bất thiện cho nên cũng là bất thiện. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, tạo tác thân khổ hạnh, khẩu và ý khổ hạnh. Kẻ ấy tạo thân khổ hạnh rồi, tạo khẩu, ý khổ hạnh rồi, do nhân đó, duyên đó khi thân hoại mạng chung sanh trong Nê Lê ác thú. Chính đó, này Ðại lực sĩ, chính là khổ ấm của thân này ở đời sau. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Này Ðại lực sĩ, chính là do năm khí vị dâm mà có nhiều khổ, bại hoại.

Còn Thánh đệ tử thì không như vậy, có tri kiến như chơn, không có hỷ lạc đối với dâm, vì nó tạo ra pháp ác bất thiện. Ðó gọi là Vô thượng tịch tĩnh. Như vậy, này Ðại lực sĩ, Thánh đệ tử cùng tương ưng với dâm pháp như vậy. Lại nữa, này Ðại lực sĩ, ta ít thích dâm, biết nó là khổ, biết nó là bại hoại. Ðó là tri kiến như thật của ta, ta cũng không đối với sự dâm mà tạo ra pháp ác bất thiện, nhờ đó mà ta được an lạc. Gọi đó là Vô thượng tịch tĩnh. Này Ðại lực sĩ, như vậy ta không tương ưng với dâm pháp.

Này Ðại lực sĩ, có một thời ta ở trong hang Thất Diệp, Bệ Ðà Niệu Chỉ Hữu Hiếp, nước La Duyệt Kỳ. Này Ðại lực sĩ, sau lúc xế chiều ta đứng dậy đi đến bên Chỉ Hữu Hiếp, ta ở trong đó, từ xa trông thấy các Ni Kiền, họ thường không ngồi mà thường quỳ, là hạnh rất thống khổ. Ta đến chỗ họ, đến xong nói với họ rằng: “Vì sao? Này Ni Kiền, lại thường quỳ như thế này mà không thường ngồi? Làm cái điều hết sức khổ hạnh như vậy?”. Họ đáp rằng: “Này Cù Ðàm, có thầy Ni Kiền thân tộc tử nói như vầy: Này các Ni Kiền, (chúng ta vốn tạo các ác hạnh) nay làm pháp khổ hạnh này sẽ tiêu trừ các ác hạnh kia. Ðó là nay thân nghiệp hành, khẩu, ý nghiệp hành, nếu có điều ác hãy đừng làm”. Ta nói với họ: “Này các Ni Kiền, vì sao các ngươi đối với thầy Ni Kiền thân tộc tử mà các ngươi có thể tin, có thể nhận lời của vị ấy được? Sao lại không nghi ngờ vị thầy kia?”. Họ trả lời rằng: “Này Cù Ðàm, vị thầy Ni Kiền thân tộc tử của chúng tôi, chúng tôi không nghi ngờ vị thầy ấy, vì vị ấy có thể tin, có thể chấp nhận được”. Ta đáp lại họ rằng: “Như vậy, như các Ni Kiền của các ngươi, có Ni Kiền, có Ni Kiền kia vốn đã tạo ác hạnh, nên phải làm khổ hạnh cùng cực. Ni Kiền kia chết rồi đời sau sanh ở nhân gian sẽ cũng lại học ở trong Ni Kiền này, phải thường quỳ, không ngồi làm khổ hạnh như vậy, như nay các ngươi đang làm sao?”. Họ nói như vầy:

–Này Cù Ðàm, không theo thiện hạnh vẫn được thiện báo. Vua Tần Phù Bà sống an trụ trong an lạc, còn Sa môn Cù Ðàm thì không được như vậy.

Ta đáp:

–Này các Ni Kiền, các ngươi nói như vậy là không đúng. Vì sao vậy? Vì kẻ phàm phu ngu si, bất định, không thiện, không nhàm chán, không biết đủ mới nói rằng: “Vua Tần Phù Bà thường ở nơi thiện, thường được an lạc, còn Sa môn Cù Ðàm thì không được như vậy”. Này các Ni Kiền, nên phải trước nhất là biết ta, tại sao ta thường ở trong sự an lạc mà nói: “Vua Tần Phù Bà hay Sa môn Cù Ðàm?”. Này các Ni Kiền, ta sẽ nói cho các ngươi biết, ta là người khéo sống trong sự an lạc chứ không phải là Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt. Các ngươi không nên nói như vầy: “Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt thường sống trong sự an lạc chứ không phải Sa môn Cù Ðàm mà có thể sánh kịp, này Sa môn Cù Ðàm!”.

Nay ta hỏi các ngươi:

–Ai là người khéo sống trong sự an lạc, vua Tần Phù Bà hay Sa môn Cù Ðàm? Ý của các Ni Kiền thế nào? Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt đã được tự tại về miệng và ý chăng? Trong bảy ngày bảy đêm thân đã hoàn toàn an trụ trong an lạc chăng?

Các Ni Kiền thưa:

–Chẳng được vậy, thưa Cù Ðàm.

Ðức Phật hỏi tiếp:

–Hoặc sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, hai ngày hoặc một ngày một đêm vua được tự tại về miệng và ý chăng? Thân đã hoàn toàn được sống trong sự an lạc chăng?

–Thưa Cù Ðàm, không được.

Ý của các Ni Kiền thế nào? Ta đã được tự tại về miệng và ý chăng? Trong một ngày một đêm, thân của ta có sống trong sự an lạc chăng?

–Ðược, thưa Cù Ðàm.

–Từ hai, ba cho đến bảy ngày bảy đêm miệng và ý của ta có được hoàn toàn khéo sống trong sự an lạc chăng?

–Ðược, thưa Cù Ðàm.

–Ý của các Ni Kiền thế nào? Ta và vua, ai thường khéo sống trong sự an lạc, vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt hay là ta?

–Như chúng tôi nhờ Sa môn Cù Ðàm thuyết giảng nên biết được nghĩa này. Chính Sa môn Cù Ðàm mới là người khéo sống trong an lạc, chứ không phải vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt.

–Này Ðại lực sĩ, hãy giảm thiểu sự dâm, biết nó có nhiều sự khổ, trong sự bại hoại thì nó có nhiều bại hoại nhất. Do đó nên Thánh đệ tử dùng trí tuệ để thấy như chơn, nên đối với dâm, pháp ác bất thiện không hỷ lạc chúng được. Ðó là sự Vô thượng tịch tịnh.

Như vậy, này Ðại lực sĩ, Thánh đệ tử tương ưng cùng pháp dâm như vậy.

Lại nữa, này Ðại lực sĩ, ta giảm thiểu mùi vị dâm vì nó có nhiều khổ, biết nó là bại hoại. Ðó là ta dùng trí tuệ bình đẳng thấy như chơn, cũng không đối với sự dâm mà có tạo pháp bất thiện, chỉ chuyên thủ hộ để được tự vui. Ðó là sự tịch tĩnh Vô thượng. Như vậy, này Ðại lực sĩ, ta không tương ưng cùng pháp dâm.

Ðức Phật dạy như vậy, vị Ðại lực sĩ ấy cùng các Tỳ kheo đã nghe đức Thế Tôn dạy xong, vui mừng hoan hỷ.

 

PHẬT NÓI KINH KHỔ ẤM NHÂN SỰ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33129)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6518)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11238)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7961)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12157)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12227)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12779)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34710)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9827)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52233)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10722)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10490)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10695)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10443)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13050)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16230)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21805)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9590)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7099)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10369)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12710)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12759)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16204)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16506)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13836)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16558)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12095)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13785)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14300)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11728)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16278)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14325)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16185)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12680)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12059)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11778)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15640)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11494)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14011)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11995)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12605)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14972)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11942)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13105)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14508)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20653)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13186)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10923)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20667)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14331)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20339)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17618)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13997)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31842)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12002)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant