Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Lậu Phân Bố

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13234)
Kinh Lậu Phân Bố


PHẬT NÓI KINH LẬU PHÂN BỐ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0057 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, Tam tạng Pháp sư An Thế Cao.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại Hành trị xứ danh vi pháp (đô ấp kiếm ma sắc đàm Câu Lâu?), nước Câu Lưu.

Bấy giờ người nước Câu Lưu đang sinh sống tại đó. Khi ấy đức Phật bảo các Tỳ kheo; các Tỳ kheo thưa: “Dạ vâng”, và theo đức Phật để nghe dạy. Ðức Phật liền nói như vầy:

–Tỳ kheo hãy lắng nghe, ta sẽ thuyết pháp, phần đầu cũng lợi, phần giữa cũng lợi, phần cuối cũng lợi, có lợi ích, có phương tiện, đầy đủ ý hiển hiện phạm hạnh. Hãy nên lắng nghe cho kỹ, thọ trì kỹ để nhớ nghĩ điều được nghe.

Các Tỳ kheo thưa: “Ðúng vậy!”. Và theo đức Phật để nghe thuyết pháp. Ðức Phật bèn nói như vầy:

–Tỳ kheo phải biết lậu, cũng phải biết nguồn gốc, cũng phải biết do lậu mà thọ lấy tai ương, cũng phải biết sự phân bố của lậu, cũng phải biết sự chấm dứt của lậu, cũng phải biết thọ hành gì khiến cho hết lậu. Tỳ kheo phải biết thống, cũng phải biết nguyên nhân của thống, cũng phải biết do thống mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của thống, cũng phải biết sự chấm dứt của thống, cũng phải biết thọ hành gì để hết thống. Tỳ kheo nên biết tư tưởng, cũng nên biết nguồn gốc của tư tưởng, cũng nên biết do tư tưởng mà thọ lấy tai ương, cũng nên biết sự phân bố của tư tưởng, cũng nên biết thọ hành gì để chấm dứt tư tưởng.

Tỳ kheo phải biết ái dục, cũng phải biết nguồn gốc của ái dục, cũng phải biết do ái dục mà thọ tai ương, cũng phải biết sự phân bố của ái dục, cũng phải biết sự chấm dứt của ái dục, cũng phải biết thọ hành gì để không còn ái dục.

Tỳ kheo phải biết hành, cũng phải biết nguyên nhân của hành, cũng phải biết vì hành mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của hành, cũng phải biết sự chấm dứt của hành, cũng phải biết thọ trì hạnh gì để không còn hành.

Tỳ kheo phải biết khổ, cũng phải biết nguyên nhân của khổ, cũng phải biết vì khổ mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của khổ, cũng phải biết sự chấm dứt của khổ, cũng phải biết thọ hành gì để không còn khổ.

Tỳ kheo phải biết lậu, cũng phải biết nguyên nhân của lậu, cũng phải biết vì lậu mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của lậu, cũng phải biết sự chấm dứt của lậu, cũng phải biết thọ hành gì mà hết lậu.

Những gì gọi là phải biết lậu? Ðó là có ba lậu:

1. Dục lậu.

2. Hữu lậu.

3. Si lậu.

Như vậy là biết lậu.

Những gì gọi là phải biết nguồn gốc của lậu? Ðó là: si là gốc của lậu, do đó mà lậu hiện hữu. Như vậy là biết nguồn gốc của lậu.

Những gì gọi là do lậu mà có tai ương? Ðó là do si mà có hành động lậu, hành động thế nào thì phải thọ lấy tai ương như vậy, hoặc sanh chỗ tốt, hoặc đọa vào chỗ xấu. Như vậy là biết do lậu mà thọ lấy tai ương.

Những gì gọi là biết sự phân bố của lậu? Ðó là do hành động sai khác mà đọa vào địa ngục, hoặc do hành động sai khác mà đọa vào súc sanh, hoặc do hành động sai khác mà đọa vào ngạ quỷ, hoặc do hành động sai khác mà sanh lên trời, hoặc do hành động sai khác mà sanh vào loài người. Như vậy gọi là biết sự phân bố của lậu.

Sao gọi là phải biết sự chấm dứt của lậu? Ðó là si đã chấm dứt nên lậu liền chấm dứt, như vậy lậu chấm dứt. Ðó là biết sự chấm dứt của lậu.

Những gì là phải biết thọ trì hạnh gì để lậu chấm dứt? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ trì hạnh gì để chấm dứt lậu.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết lậu như vậy, biết nguyên nhân của lậu như vậy, biết do lậu mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của lậu như vậy, biết sự chấm dứt của lậu như vậy, biết thọ hành nên khiến lậu được chấm dứt như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo, làm cho các lậu được chấm dứt.

Tỳ kheo phải biết thống, cũng phải biết nguyên nhân của thống, cũng phải biết vì thống mà thọ tai ương, cũng phải biết sự phân bố của thống, cũng phải biết sự chấm dứt của thống, cũng phải biết thọ hành gì khiến cho chấm dứt thống.

Những gì là phải biết thống? Ðó là có ba loại thống:

1. Lạc thống.

2. Khổ thống.

3. Cũng không lạc không khổ thống.

Như vậy là biết thống.

Những gì là phải biết nguồn gốc của thống? Ðó là do suy tư điều hư vọng. Như vậy là biết nguồn gốc của thống.

Những gì là phải biết do thống mà thọ tai ương? Ðó là có loại suy tư xúc đưa đến sự khổ. Như vậy là biết từ thống đưa đến tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của thống? Này Tỳ kheo, Tỳ kheo tiếp xúc với lạc thống (thọ) thì biết là tiếp xúc lạc thống, tiếp xúc với khổ thống thì biết là tiếp xúc với khổ thống, tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là đang tiếp xúc với không lạc không khổ thống; thân tiếp xúc với lạc thống thì biết là thân tiếp xúc với lạc thống, thân tiếp xúc với khổ thống thì biết là thân tiếp xúc với khổ thống, thân tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là thân tiếp xúc với không khổ không lạc thống; tâm niệm tiếp xúc với lạc thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với lạc thống, tâm niệm tiếp xúc với khổ thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với khổ thống, tâm niệm tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với không khổ không lạc thống. Lạc thống do mong cầu mà có thì biết lạc thống do mong cầu mà có. Khổ thống do mong cầu mà có thì biết khổ thống do mong cầu mà có. Không khổ không lạc thống do mong cầu mà có thì biết không khổ không lạc thống do mong cầu mà có. Lạc thống không do mong cầu mà có thì biết lạc thống không do mong cầu mà có. Khổ thống không do mong cầu mà có thì biết khổ thống không do mong cầu mà có. Không khổ không lạc thống không do mong cầu mà có thì biết không khổ không lạc thống không do mong cầu mà có. Lạc thống do sống trong gia đình thì biết lạc thống do sống trong gia đình. Khổ thống do sống trong gia đình thì biết khổ thống do sống trong gia đình. Không khổ không lạc thống do sống trong gia đình thì biết không khổ không lạc thống do sống trong gia đình. Lạc thống nhờ bỏ gia đình thì biết lạc thống nhờ bỏ gia đình. Khổ thống nhờ bỏ gia đình thì biết khổ thống nhờ bỏ gia đình. Không khổ không lạc thống nhờ bỏ gia đình thì biết không khổ không lạc thống nhờ bỏ gia đình. Như vậy là biết sự phân bố của thống.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của thống? Ðó là nhớ nghĩ đến sự từ bỏ thì thống liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của thống.

Những gì là phải biết thọ hành để thống chấm dứt? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt thống.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết thống như vậy, biết nguyên nhân của thống như vậy, biết do thống mà bị tai ương như vậy, biết sự phân bố của thống như vậy, biết sự chấm dứt của thống như vậy, biết thọ hành để chấm dứt thống như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, nhờ hành thanh tịnh nên được đạo, làm cho thống được chấm dứt.

Tỳ kheo phải biết tư tưởng, phải biết nguồn gốc của tư tưởng, phải biết do tư tưởng mà thọ lấy tai ương, cũng phải biết sự phân bố của tư tưởng, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt tư tưởng.

Những gì là phải biết tư tưởng? Ðó là có bốn loại tư tưởng:

1. Tư tưởng ít.

2. Tư tưởng nhiều.

3. Tư tưởng vô lượng.

4. Tư tưởng vô sở hữu bất dụng.

Như vậy là biết tư tưởng.

Những gì là phải biết nguồn gốc của tư tưởng? Tập là nguồn gốc của tư tưởng. Như vậy là biết nguồn gốc của tư tưởng.

Những gì là phải biết từ tư tưởng mà có tai ương? Ðó là như điều tư tưởng làm, như điều tư tưởng hành. Ðó gọi là việc làm, hành động. Như vậy là biết do tư tưởng mà thọ tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của tư tưởng? Ðó là tư tưởng về sắc thì khác, tư tưởng về tiếng cũng khác, tư tưởng về hương cũng khác, tư tưởng về vị cũng khác, tư tưởng về sự thô, tế của thân cảm xúc cũng khác. Như vậy là biết sự phân bố của tư tưởng.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của tư tưởng? Ðó là tư tưởng đã hết thì tư tưởng liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của tư tưởng.

Những gì là phải biết thọ hành để chấm dứt tư tưởng? Ðó là tám loại chủng hạnh: 1- Trực kiến. 2- Trực cánh. 3- Trực ngữ. 4- Trực hành. 5- Trực nghiệp. 6- Trực phương tiện. 7- Trực niệm. 8- Trực định. Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt tư tưởng.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết tư tưởng như vậy, biết nguồn gốc của tư tưởng như vậy, biết do tư tưởng mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của tư tưởng như vậy, biết sự chấm dứt của tư tưởng như vậy, biết thọ hành nên khiến tư tưởng được chấm dứt như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo, khiến cho chấm dứt tư tưởng.

Tỳ kheo phải nên biết ái dục, cũng phải biết nguồn gốc của ái dục, cũng phải biết do ái dục đưa đến tai ương, cũng phải biết sự phân bố của ái dục, cũng phải biết sự chấm dứt của ái dục, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt ái dục.

Những gì là phải biết ái dục? Ðó là ái dục có năm loại: dục đắc, dục tối tại tâm, dục ái, sắc tùy ý đưa đến tham trước, thân cận. Những gì là năm?

1. Các sắc do nhãn căn nhận thức khả ái, dục đắc, dục tối thượng đối với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

2. Các tiếng do lỗ tai nhận thức thì dục đắc, dục tối thượng với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

3. Các hương do lỗ mũi nhận thức thì dục đắc, dục tối thượng với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

4. Các vị do miệng nhận thức là dục đắc, dục tối thượng đối với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

5. Các xúc thô, tế do thân cảm xúc biết được, dục đắc, dục tối thượng đối với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

Như vậy là biết được ái dục.

Những gì là biết nguồn gốc của ái dục? Ðó là Tư. Như vậy là biết nguồn gốc của ái dục.

Những gì là biết vì ái dục phải thọ tai ương? Nếu đã làm ra ái dục, đã sanh dục vọng, liền có tranh cãi, mong chờ, liền sanh tư tưởng tai ương. Vì vậy phải tùy thuận tai ương hoặc đến chỗ tốt, hoặc vào chỗ dữ. Như vậy là biết do ái dục mà thọ lấy tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của ái dục? Ðó là ái dục sắc thì khác, ái dục của thinh cũng khác, ái dục của hương cũng khác, ái dục của mùi vị cũng khác, ái dục do thân tiếp xúc vật thô tế cũng khác. Như vậy là biết sự phân bố của ái dục.

Những gì là biết sự chấm dứt của ái dục? Ðó là Tư đã chấm dứt thì ái liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của ái dục.

Những gì là biết thọ hành để chấm dứt ái dục? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt ái dục.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết ái dục như vậy, biết nguyên nhân của ái dục như vậy, biết do ái dục mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của ái dục như vậy, biết sự chấm dứt của ái dục như vậy, biết thọ hành để chấm dứt ái dục như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh, được đắc đạo, khiến cho ái dục được chấm dứt.

Tỳ kheo cần phải biết hành, cũng phải biết nguồn gốc của hành, cũng phải biết do hành mà thọ lấy tai ương hay phước đức, cũng phải biết sự phân bố của hành, cũng phải biết sự chấm dứt của hành, cũng phải biết thọ hành gì thì chấm dứt hành.

Những gì là phải biết hành? Ðó là điều nhớ nghĩ không xa lìa, gọi là hành.

Những gì là biết nguồn gốc của hành? Ðó là từ ái dục có hữu vi, từ hành động ái có gốc hành. Như vậy là biết nguồn gốc của hành.

Những gì là biết do hành mà phải thọ tai ương hay phước đức? Ðó là hành động đen tối phải bị tai ương xấu ác khiến phải sa đọa, có hành động thanh bạch, khiến cho có phước thanh bạch, được sanh lên cao. Ðó là biết do hành mà phải thọ lấy tai ương hay phước đức.

Những gì là phải biết sự phân bố của hành? Ðó là có hành động đen tối phải theo sự đen tối mà thọ lấy tai ương, có hành động thanh bạch thì nhờ sự thanh bạch mà được phước đức thanh bạch. Vì có hành động đen tối hay thanh bạch nên đưa đến nghiệp đen hay trắng, tai ương hay phước đức. Cũng có hành động chẳng phải đen, cũng chẳng phải thanh bạch, nhờ đó được phước đức, mỗi hành mỗi hành đều chấm dứt hoàn toàn. Như vậy là biết sự phân bố của hành.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của hành? Ðó là ái đã hết thì hành liền hết. Như vậy là biết sự chấm dứt của hành.

Những gì là biết thọ hành để chấm dứt hành động? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt hành.

Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo đã biết hành như vậy, biết căn bổn của hành như vậy, biết do hành mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của hành như vậy, biết sự chấm dứt của hành như vậy, biết thọ hành để chấm dứt hành như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, yểm ly thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo, khiến cho chấm dứt hành hoàn toàn.

Tỳ kheo phải biết khổ, cũng phải biết nguyên nhân của khổ, cũng phải biết vì khổ mà thọ lấy tai ương, cũng phải biết sự phân bố của khổ, cũng phải biết sự chấm dứt của khổ, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt khổ.

Những gì là Tỳ kheo phải biết khổ? Ðó là Tỳ kheo phải biết sanh là khổ, phải biết già là khổ, biết bệnh là khổ, phải biết chết là khổ, phải biết oán thù gặp nhau là khổ, phải biết ái biệt ly là khổ, phải biết cầu mong không được là khổ, phải biết nguồn gốc của năm ấm là khổ. Như vậy là biết khổ.

Những gì là phải biết nguồn gốc của khổ? Gốc là si, si là nguồn gốc của khổ. Như vậy là biết nguồn gốc của khổ.

Những gì là phải biết do khổ mà thọ lấy tai ương? Ðó là người thế gian ngu si không nghe kinh điển, ở trong thân cảm xúc khổ thống kịch liệt, sự đau khổ kịch liệt không thể chịu nổi, phải nên chấm dứt ý nghĩ đó, vì theo bên ngoài, cầu mong pháp hữu vi bên ngoài, căn cứ bên ngoài mà cầu mong. Có Sa môn, Bà la môn từ một câu, hai câu, ba câu, bốn câu, năm câu, một trăm câu trì chú để cúng tế làm cho nhờ vậy mà thân được thoát khổ, hay đó là tai ương của khổ. Như vậy là biết do khổ mà thọ lấy tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của khổ? Ðó là có khổ ít mà thọ tai ương lâu dài, hoặc là có khổ ít mà không bị tai ương tật bệnh, hoặc có khổ nhiều mà thọ tai ương lâu dài, hoặc khổ nhiều mà thoát tai ương tật bệnh. Như vậy là biết sự phân bố của khổ.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của khổ? Ðó là si đã chấm dứt thì khổ liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của khổ.

Những gì là phải biết thọ hành để chấm dứt khổ? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt khổ.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết khổ như vậy, biết nguyên nhân của khổ như vậy, biết vì khổ mà thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của khổ như vậy, biết sự chấm dứt của khổ như vậy, biết thọ hành để chấm dứt khổ như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh được đắc đạo, để chấm dứt khổ đau.

Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo thọ trì lời Phật dạy, trong tâm vui mừng thực hành, theo đó thực hành, đạt được vô vi thanh tịnh.

 

PHẬT NÓI KINH LẬU PHÂN BỐ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14726)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11780)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12735)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10306)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12031)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15250)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11043)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10483)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12435)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16386)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14269)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11739)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14763)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11995)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16788)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11549)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12706)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11314)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12031)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52041)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15429)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13941)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11410)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13141)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12750)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13188)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17869)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12420)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12617)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54164)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14395)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9898)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13794)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57907)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14461)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20091)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13744)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15370)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17465)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13294)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11886)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13466)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14631)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12454)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12136)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12043)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13265)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12507)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13638)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13305)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25522)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12163)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14507)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11821)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42031)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28279)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38748)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14699)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12675)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16227)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant