Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Lậu Phân Bố

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13238)
Kinh Lậu Phân Bố


PHẬT NÓI KINH LẬU PHÂN BỐ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0057 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, Tam tạng Pháp sư An Thế Cao.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại Hành trị xứ danh vi pháp (đô ấp kiếm ma sắc đàm Câu Lâu?), nước Câu Lưu.

Bấy giờ người nước Câu Lưu đang sinh sống tại đó. Khi ấy đức Phật bảo các Tỳ kheo; các Tỳ kheo thưa: “Dạ vâng”, và theo đức Phật để nghe dạy. Ðức Phật liền nói như vầy:

–Tỳ kheo hãy lắng nghe, ta sẽ thuyết pháp, phần đầu cũng lợi, phần giữa cũng lợi, phần cuối cũng lợi, có lợi ích, có phương tiện, đầy đủ ý hiển hiện phạm hạnh. Hãy nên lắng nghe cho kỹ, thọ trì kỹ để nhớ nghĩ điều được nghe.

Các Tỳ kheo thưa: “Ðúng vậy!”. Và theo đức Phật để nghe thuyết pháp. Ðức Phật bèn nói như vầy:

–Tỳ kheo phải biết lậu, cũng phải biết nguồn gốc, cũng phải biết do lậu mà thọ lấy tai ương, cũng phải biết sự phân bố của lậu, cũng phải biết sự chấm dứt của lậu, cũng phải biết thọ hành gì khiến cho hết lậu. Tỳ kheo phải biết thống, cũng phải biết nguyên nhân của thống, cũng phải biết do thống mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của thống, cũng phải biết sự chấm dứt của thống, cũng phải biết thọ hành gì để hết thống. Tỳ kheo nên biết tư tưởng, cũng nên biết nguồn gốc của tư tưởng, cũng nên biết do tư tưởng mà thọ lấy tai ương, cũng nên biết sự phân bố của tư tưởng, cũng nên biết thọ hành gì để chấm dứt tư tưởng.

Tỳ kheo phải biết ái dục, cũng phải biết nguồn gốc của ái dục, cũng phải biết do ái dục mà thọ tai ương, cũng phải biết sự phân bố của ái dục, cũng phải biết sự chấm dứt của ái dục, cũng phải biết thọ hành gì để không còn ái dục.

Tỳ kheo phải biết hành, cũng phải biết nguyên nhân của hành, cũng phải biết vì hành mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của hành, cũng phải biết sự chấm dứt của hành, cũng phải biết thọ trì hạnh gì để không còn hành.

Tỳ kheo phải biết khổ, cũng phải biết nguyên nhân của khổ, cũng phải biết vì khổ mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của khổ, cũng phải biết sự chấm dứt của khổ, cũng phải biết thọ hành gì để không còn khổ.

Tỳ kheo phải biết lậu, cũng phải biết nguyên nhân của lậu, cũng phải biết vì lậu mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của lậu, cũng phải biết sự chấm dứt của lậu, cũng phải biết thọ hành gì mà hết lậu.

Những gì gọi là phải biết lậu? Ðó là có ba lậu:

1. Dục lậu.

2. Hữu lậu.

3. Si lậu.

Như vậy là biết lậu.

Những gì gọi là phải biết nguồn gốc của lậu? Ðó là: si là gốc của lậu, do đó mà lậu hiện hữu. Như vậy là biết nguồn gốc của lậu.

Những gì gọi là do lậu mà có tai ương? Ðó là do si mà có hành động lậu, hành động thế nào thì phải thọ lấy tai ương như vậy, hoặc sanh chỗ tốt, hoặc đọa vào chỗ xấu. Như vậy là biết do lậu mà thọ lấy tai ương.

Những gì gọi là biết sự phân bố của lậu? Ðó là do hành động sai khác mà đọa vào địa ngục, hoặc do hành động sai khác mà đọa vào súc sanh, hoặc do hành động sai khác mà đọa vào ngạ quỷ, hoặc do hành động sai khác mà sanh lên trời, hoặc do hành động sai khác mà sanh vào loài người. Như vậy gọi là biết sự phân bố của lậu.

Sao gọi là phải biết sự chấm dứt của lậu? Ðó là si đã chấm dứt nên lậu liền chấm dứt, như vậy lậu chấm dứt. Ðó là biết sự chấm dứt của lậu.

Những gì là phải biết thọ trì hạnh gì để lậu chấm dứt? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ trì hạnh gì để chấm dứt lậu.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết lậu như vậy, biết nguyên nhân của lậu như vậy, biết do lậu mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của lậu như vậy, biết sự chấm dứt của lậu như vậy, biết thọ hành nên khiến lậu được chấm dứt như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo, làm cho các lậu được chấm dứt.

Tỳ kheo phải biết thống, cũng phải biết nguyên nhân của thống, cũng phải biết vì thống mà thọ tai ương, cũng phải biết sự phân bố của thống, cũng phải biết sự chấm dứt của thống, cũng phải biết thọ hành gì khiến cho chấm dứt thống.

Những gì là phải biết thống? Ðó là có ba loại thống:

1. Lạc thống.

2. Khổ thống.

3. Cũng không lạc không khổ thống.

Như vậy là biết thống.

Những gì là phải biết nguồn gốc của thống? Ðó là do suy tư điều hư vọng. Như vậy là biết nguồn gốc của thống.

Những gì là phải biết do thống mà thọ tai ương? Ðó là có loại suy tư xúc đưa đến sự khổ. Như vậy là biết từ thống đưa đến tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của thống? Này Tỳ kheo, Tỳ kheo tiếp xúc với lạc thống (thọ) thì biết là tiếp xúc lạc thống, tiếp xúc với khổ thống thì biết là tiếp xúc với khổ thống, tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là đang tiếp xúc với không lạc không khổ thống; thân tiếp xúc với lạc thống thì biết là thân tiếp xúc với lạc thống, thân tiếp xúc với khổ thống thì biết là thân tiếp xúc với khổ thống, thân tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là thân tiếp xúc với không khổ không lạc thống; tâm niệm tiếp xúc với lạc thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với lạc thống, tâm niệm tiếp xúc với khổ thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với khổ thống, tâm niệm tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với không khổ không lạc thống. Lạc thống do mong cầu mà có thì biết lạc thống do mong cầu mà có. Khổ thống do mong cầu mà có thì biết khổ thống do mong cầu mà có. Không khổ không lạc thống do mong cầu mà có thì biết không khổ không lạc thống do mong cầu mà có. Lạc thống không do mong cầu mà có thì biết lạc thống không do mong cầu mà có. Khổ thống không do mong cầu mà có thì biết khổ thống không do mong cầu mà có. Không khổ không lạc thống không do mong cầu mà có thì biết không khổ không lạc thống không do mong cầu mà có. Lạc thống do sống trong gia đình thì biết lạc thống do sống trong gia đình. Khổ thống do sống trong gia đình thì biết khổ thống do sống trong gia đình. Không khổ không lạc thống do sống trong gia đình thì biết không khổ không lạc thống do sống trong gia đình. Lạc thống nhờ bỏ gia đình thì biết lạc thống nhờ bỏ gia đình. Khổ thống nhờ bỏ gia đình thì biết khổ thống nhờ bỏ gia đình. Không khổ không lạc thống nhờ bỏ gia đình thì biết không khổ không lạc thống nhờ bỏ gia đình. Như vậy là biết sự phân bố của thống.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của thống? Ðó là nhớ nghĩ đến sự từ bỏ thì thống liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của thống.

Những gì là phải biết thọ hành để thống chấm dứt? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt thống.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết thống như vậy, biết nguyên nhân của thống như vậy, biết do thống mà bị tai ương như vậy, biết sự phân bố của thống như vậy, biết sự chấm dứt của thống như vậy, biết thọ hành để chấm dứt thống như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, nhờ hành thanh tịnh nên được đạo, làm cho thống được chấm dứt.

Tỳ kheo phải biết tư tưởng, phải biết nguồn gốc của tư tưởng, phải biết do tư tưởng mà thọ lấy tai ương, cũng phải biết sự phân bố của tư tưởng, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt tư tưởng.

Những gì là phải biết tư tưởng? Ðó là có bốn loại tư tưởng:

1. Tư tưởng ít.

2. Tư tưởng nhiều.

3. Tư tưởng vô lượng.

4. Tư tưởng vô sở hữu bất dụng.

Như vậy là biết tư tưởng.

Những gì là phải biết nguồn gốc của tư tưởng? Tập là nguồn gốc của tư tưởng. Như vậy là biết nguồn gốc của tư tưởng.

Những gì là phải biết từ tư tưởng mà có tai ương? Ðó là như điều tư tưởng làm, như điều tư tưởng hành. Ðó gọi là việc làm, hành động. Như vậy là biết do tư tưởng mà thọ tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của tư tưởng? Ðó là tư tưởng về sắc thì khác, tư tưởng về tiếng cũng khác, tư tưởng về hương cũng khác, tư tưởng về vị cũng khác, tư tưởng về sự thô, tế của thân cảm xúc cũng khác. Như vậy là biết sự phân bố của tư tưởng.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của tư tưởng? Ðó là tư tưởng đã hết thì tư tưởng liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của tư tưởng.

Những gì là phải biết thọ hành để chấm dứt tư tưởng? Ðó là tám loại chủng hạnh: 1- Trực kiến. 2- Trực cánh. 3- Trực ngữ. 4- Trực hành. 5- Trực nghiệp. 6- Trực phương tiện. 7- Trực niệm. 8- Trực định. Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt tư tưởng.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết tư tưởng như vậy, biết nguồn gốc của tư tưởng như vậy, biết do tư tưởng mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của tư tưởng như vậy, biết sự chấm dứt của tư tưởng như vậy, biết thọ hành nên khiến tư tưởng được chấm dứt như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo, khiến cho chấm dứt tư tưởng.

Tỳ kheo phải nên biết ái dục, cũng phải biết nguồn gốc của ái dục, cũng phải biết do ái dục đưa đến tai ương, cũng phải biết sự phân bố của ái dục, cũng phải biết sự chấm dứt của ái dục, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt ái dục.

Những gì là phải biết ái dục? Ðó là ái dục có năm loại: dục đắc, dục tối tại tâm, dục ái, sắc tùy ý đưa đến tham trước, thân cận. Những gì là năm?

1. Các sắc do nhãn căn nhận thức khả ái, dục đắc, dục tối thượng đối với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

2. Các tiếng do lỗ tai nhận thức thì dục đắc, dục tối thượng với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

3. Các hương do lỗ mũi nhận thức thì dục đắc, dục tối thượng với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

4. Các vị do miệng nhận thức là dục đắc, dục tối thượng đối với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

5. Các xúc thô, tế do thân cảm xúc biết được, dục đắc, dục tối thượng đối với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

Như vậy là biết được ái dục.

Những gì là biết nguồn gốc của ái dục? Ðó là Tư. Như vậy là biết nguồn gốc của ái dục.

Những gì là biết vì ái dục phải thọ tai ương? Nếu đã làm ra ái dục, đã sanh dục vọng, liền có tranh cãi, mong chờ, liền sanh tư tưởng tai ương. Vì vậy phải tùy thuận tai ương hoặc đến chỗ tốt, hoặc vào chỗ dữ. Như vậy là biết do ái dục mà thọ lấy tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của ái dục? Ðó là ái dục sắc thì khác, ái dục của thinh cũng khác, ái dục của hương cũng khác, ái dục của mùi vị cũng khác, ái dục do thân tiếp xúc vật thô tế cũng khác. Như vậy là biết sự phân bố của ái dục.

Những gì là biết sự chấm dứt của ái dục? Ðó là Tư đã chấm dứt thì ái liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của ái dục.

Những gì là biết thọ hành để chấm dứt ái dục? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt ái dục.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết ái dục như vậy, biết nguyên nhân của ái dục như vậy, biết do ái dục mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của ái dục như vậy, biết sự chấm dứt của ái dục như vậy, biết thọ hành để chấm dứt ái dục như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh, được đắc đạo, khiến cho ái dục được chấm dứt.

Tỳ kheo cần phải biết hành, cũng phải biết nguồn gốc của hành, cũng phải biết do hành mà thọ lấy tai ương hay phước đức, cũng phải biết sự phân bố của hành, cũng phải biết sự chấm dứt của hành, cũng phải biết thọ hành gì thì chấm dứt hành.

Những gì là phải biết hành? Ðó là điều nhớ nghĩ không xa lìa, gọi là hành.

Những gì là biết nguồn gốc của hành? Ðó là từ ái dục có hữu vi, từ hành động ái có gốc hành. Như vậy là biết nguồn gốc của hành.

Những gì là biết do hành mà phải thọ tai ương hay phước đức? Ðó là hành động đen tối phải bị tai ương xấu ác khiến phải sa đọa, có hành động thanh bạch, khiến cho có phước thanh bạch, được sanh lên cao. Ðó là biết do hành mà phải thọ lấy tai ương hay phước đức.

Những gì là phải biết sự phân bố của hành? Ðó là có hành động đen tối phải theo sự đen tối mà thọ lấy tai ương, có hành động thanh bạch thì nhờ sự thanh bạch mà được phước đức thanh bạch. Vì có hành động đen tối hay thanh bạch nên đưa đến nghiệp đen hay trắng, tai ương hay phước đức. Cũng có hành động chẳng phải đen, cũng chẳng phải thanh bạch, nhờ đó được phước đức, mỗi hành mỗi hành đều chấm dứt hoàn toàn. Như vậy là biết sự phân bố của hành.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của hành? Ðó là ái đã hết thì hành liền hết. Như vậy là biết sự chấm dứt của hành.

Những gì là biết thọ hành để chấm dứt hành động? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt hành.

Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo đã biết hành như vậy, biết căn bổn của hành như vậy, biết do hành mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của hành như vậy, biết sự chấm dứt của hành như vậy, biết thọ hành để chấm dứt hành như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, yểm ly thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo, khiến cho chấm dứt hành hoàn toàn.

Tỳ kheo phải biết khổ, cũng phải biết nguyên nhân của khổ, cũng phải biết vì khổ mà thọ lấy tai ương, cũng phải biết sự phân bố của khổ, cũng phải biết sự chấm dứt của khổ, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt khổ.

Những gì là Tỳ kheo phải biết khổ? Ðó là Tỳ kheo phải biết sanh là khổ, phải biết già là khổ, biết bệnh là khổ, phải biết chết là khổ, phải biết oán thù gặp nhau là khổ, phải biết ái biệt ly là khổ, phải biết cầu mong không được là khổ, phải biết nguồn gốc của năm ấm là khổ. Như vậy là biết khổ.

Những gì là phải biết nguồn gốc của khổ? Gốc là si, si là nguồn gốc của khổ. Như vậy là biết nguồn gốc của khổ.

Những gì là phải biết do khổ mà thọ lấy tai ương? Ðó là người thế gian ngu si không nghe kinh điển, ở trong thân cảm xúc khổ thống kịch liệt, sự đau khổ kịch liệt không thể chịu nổi, phải nên chấm dứt ý nghĩ đó, vì theo bên ngoài, cầu mong pháp hữu vi bên ngoài, căn cứ bên ngoài mà cầu mong. Có Sa môn, Bà la môn từ một câu, hai câu, ba câu, bốn câu, năm câu, một trăm câu trì chú để cúng tế làm cho nhờ vậy mà thân được thoát khổ, hay đó là tai ương của khổ. Như vậy là biết do khổ mà thọ lấy tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của khổ? Ðó là có khổ ít mà thọ tai ương lâu dài, hoặc là có khổ ít mà không bị tai ương tật bệnh, hoặc có khổ nhiều mà thọ tai ương lâu dài, hoặc khổ nhiều mà thoát tai ương tật bệnh. Như vậy là biết sự phân bố của khổ.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của khổ? Ðó là si đã chấm dứt thì khổ liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của khổ.

Những gì là phải biết thọ hành để chấm dứt khổ? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt khổ.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết khổ như vậy, biết nguyên nhân của khổ như vậy, biết vì khổ mà thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của khổ như vậy, biết sự chấm dứt của khổ như vậy, biết thọ hành để chấm dứt khổ như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh được đắc đạo, để chấm dứt khổ đau.

Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo thọ trì lời Phật dạy, trong tâm vui mừng thực hành, theo đó thực hành, đạt được vô vi thanh tịnh.

 

PHẬT NÓI KINH LẬU PHÂN BỐ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15759)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11056)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53621)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12962)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16518)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15388)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19151)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19921)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15547)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15339)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15140)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20322)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23933)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15483)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13021)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20089)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13268)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29013)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11691)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18274)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16640)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13228)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12796)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13241)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12964)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12859)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12999)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13536)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11705)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14222)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17719)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22576)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13438)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14322)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105733)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14596)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19768)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38414)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15514)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16048)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11322)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15642)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14019)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12824)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13695)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12489)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19367)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26999)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13107)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13459)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21583)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17963)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21870)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14201)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16061)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16126)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19094)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24770)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant