Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Chư Pháp Bổn

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11717)
Kinh Chư Pháp Bổn


PHẬT NÓI KINH CHƯ PHÁP BỔN 


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0059 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn Sa Môn Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở trong vườn Lộc Dã Bà Kỳ Thi Mục Ma Lâm Tỷ Lượng. Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất bảo các Tỳ kheo:

–Này chư hiền, hiện tại có thể biết thế gian có bốn loại người.

–Những gì là bốn?

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục (ô uế), kẻ ấy bên trong có cầu dục mà không biết rõ. Này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục nhưng tự biết rõ. Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục nhưng không tự biết rõ. Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục nhưng tự biết rõ.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục mà không tự biết rõ, ta nói kẻ ấy là người hết sức tệ ác.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục nhưng tự biết rõ, ta nói kẻ ấy là tối thắng.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục mà không tự biết rõ, ta nói kẻ ấy là người hết sức tệ ác.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục nhưng tự biết rõ, ta nói kẻ ấy là người tối thắng.

Khi ấy có một Tỳ kheo khác từ tòa đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay hướng về tôn giả Xá Lợi Phất thưa tôn giả rằng:

–Thế nào thưa tôn giả Xá Lợi Phất, do nhân duyên gì mà hai người đầu, cùng có cầu dục (ô uế), đều có tham trước mà ngài nói một người thì tệ ác, còn một người thì lại tối thắng? Lại có nhân duyên gì mà hai người sau này, đều không có cầu dục, đều không có tham trước mà ngài nói một người thì tệ ác, còn một người thì lại tối thắng?

–Này chư hiền, hoặc có một người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục không biết rõ, nên biết kẻ ấy không khởi lên ước muốn, cũng không cố gắng, cũng không tinh tấn (để diệt trừ dục tham ấy), kẻ ấy an trụ cầu dục, họ sẽ từ trần trong khi còn cầu dục, ý tham trước. Kẻ ấy đã từ trần trong khi còn cầu dục, ý tham trước, vì mạng chungbất thiện, sẽ không được sanh đến chỗ lành. Vì sao như vậy? –Vì kẻ ấy mạng chung mà còn cầu dục, ý tham trước vậy. Giống như, này chư hiền, có người hoặc ở chợ búa, hoặc ở nhà thợ rèn mang một cái bát bằng đồng về, dơ nhớp bất tịnh. Kẻ ấy đã mang bát đồng về rồi mà cũng không tùy thời rửa sạch, không tùy thời lau chùi, cũng không tùy thời mài cọ, chỉ để trong bụi bặm. Cái bát đồng này như vậy chỉ tăng thêm sự cấu uế. Như vậy, này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục mà không tự biết rõ, nên kẻ ấy cũng không khởi lên ước muốn, cũng không cố gắng, cũng không tinh tấn (để diệt trừ cầu dục ấy). Kẻ ấy chỉ an trú nơi dục cầu. Kẻ ấy sẽ mạng chung trong khi ý còn tham trước, mạng chung mà bên trong ý còn tham trước, khi chết rồi sẽ bất thiện và sẽ không được sanh đến chỗ lành. Vì sao vậy? –Vì kẻ ấy mạng chung mà bên trong còn cầu trước còn cầu dục vậy.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục nhưng biết rất rõ, nên biết kẻ ấy sẽ khởi lên ước muốn, sẽ tinh tấn diệt trừ thì sự cầu dục của kẻ ấy sẽ đình chỉ. Kẻ ấy không có ý cầu dục, vì không có ý cầu dục cho nên khi mạng chung mà không tham trước. Kẻ ấy không có ý tham trước, đã mạng chung mà không có ý tham trước nên cái chết ấy cũng tốt đẹp mà chỗ được sanh đến cũng tốt đẹp. Vì sao vậy? –Vì kẻ ấy không có cầu dục, không có ý tham trước vậy. Giống như, này chư hiền, có người hoặc ở chợ búa hay ở nhà thợ rèn, mang cái bát bằng đồng đầy bụi bặm ô uế về. Kẻ ấy mang cái bát về rồi tùy thời rửa sạch, tùy thời lau chùi, tùy thời mài cọ, không để chỗ bụi bặm. Như vậy, này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục nhưng biết rất rõ. Nên biết kẻ ấy sẽ siêng năng, tinh tấn và ước muốn đoạn trừ dục cầu, không có ý cầu dục, mạng chung trong khi không có tham trước. Kẻ ấy không có ý cầu dục, đã mạng chung mà không có tham trước, thì sự mạng chung ấy đã tốt, cũng được sanh đến chỗ lành. Vì sao vậy? –Vì kẻ ấy mạng chung mà không có cầu dục, không có ý tham trước vậy.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục mà không biết rõ, nên biết kẻ ấy không thể bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp. Khi đã không bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp rồi thì ý sẽ có dâm dục. Kẻ ấy sẽ mạng chung mà ý còn tham trước tạp dục, tạp cầu. Kẻ ấy đã mạng chung mà ý còn tham trước tạp dục, tạp cầu, thì cái chết ấy bất thiện, cũng sanh đến chỗ bất thiện. Vì sao vậy? –Vì khi chết mà ý còn tham trước tạp dục, tạp cầu vậy. Này chư hiền, giống như, có người hoặc ở chợ búa, hay ở nhà thợ rèn mang một cái bát bằng đồng sạch sẽ về. Khi mang về rồi cũng không tùy thời rửa sạch, cũng không tùy thời lau chùi, cũng không tùy thời mài cọ, để chỗ bụi bặm. Cái bát đồng như vậy về sau sẽ bị cấu uế không sạch. Này chư hiền, như vậy, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục mà không biết rõ, nên biết kẻ ấy không thể bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp. Kẻ ấy đã không bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp rồi, sẽ có ý dâm dục, ý tạp dục, mạng chung mà ý đắm trước, tạp dục, tạp cầu. Kẻ ấy đã mạng chung mà có ý tham trước tạp dục, tạp cầu, thì sự chết sẽ không tốt, cũng không sanh đến chỗ lành. Vì sao vậy? –Vì kẻ ấy mạng chung mà có ý tham trước tạp dục, tạp cầu vậy.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục, nhưng biết rất rõ, nên biết kẻ ấy có thể bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp. Kẻ ấy đã bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp rồi sẽ không có dục ý, mạng chung mà ý không tham trước không cầu, không dục. Kẻ ấy đã mạng chung mà không có ý tham trước không dục, không cầu, thì sự chết đã tốt mà chỗ sanh cũng tốt. Vì sao vậy? –Vì mạng chung mà ý không tham trước không dục, không cầu vậy. Này chư hiền, giống như, có người hoặc ở chợ búa, hay ở nhà thợ rèn mang về cái bát bằng đồng sạch sẽ, mang về rồi tùy lúc rửa sạch, tùy lúc lau chùi, tùy lúc mài cọ, không để chỗ bụi bặm. Như vậy, cái bát ấy càng thêm sạch sẽ trắng tinh. Như vậy, này chư hiền, kẻ ấy cũng như vậy, bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục, biết rõ như vậy, nên biết kẻ ấy có thể bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp. Kẻ ấy đã bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp rồi sẽ không có dâm dục. Kẻ ấy ý sẽ không tham đắm, không tạp dục, tạp cầu lúc mạng chung. Kẻ ấy đã mạng chung mà ý không tham đắm, không tạp dục, tạp cầu nên chết cũng tốt mà chỗ thác sanh cũng tốt. Vì sao vậy? –Vì kẻ ấy lúc mạng chung mà ý không tham đắm, không tạp dục, tạp cầu vậy.

Do vậy, này chư hiền, nhân như vậy, duyên như vậy nên khiến cho hai người đầu có cầu dục trước ý mà nói một người thì tệ ác, còn một người thì tối thắng. Do nhân như vậy, duyên như vậy nên hai loại người sau bên trong không có ý tham trước, cầu dục mà nói một người thì tệ ác còn một người thì tối thắng vậy.

Bấy giờ có Tỳ kheo khác từ tòa đứng dậy, sửa y chắp tay hướng về tôn giả Xá Lợi Phất, thưa tôn giả Xá Lợi Phất rằng:

–Thế nào, thưa tôn giả Xá Lợi Phất, gọi là cầu dục? Cầu dục ấy vì sao gọi là cầu dục?

Này chư hiền, vì cầu dục vô lượng các pháp ác, cho nên gọi là cầu dục. Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn như sau: “Nếu ta có phạm tội chút ít đừng để cho người khác biết ta có phạm giới”. Này chư hiền, các Tỳ kheo có thể biết được vị ấy đã phạm giới, vì có người biết nên vị ấy trở thành sân hận. Này chư hiền, nếu kẻ ấy đã sân hận, do dục hành động, toàn là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn: “Nếu ta có phạm tội chút ít, mong rằng người ta quở trách ở chỗ kín đáo, đừng quở trách ta phạm giới trước công chúng”. Nhưng này chư hiền, có thể biết rằng người phạm giới ấy bị quở trách trước công chúng. Do người ta không quở trách ở chỗ kín đáo mà lại quở trách trước công chúng, nên người ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, người ấy đã sanh tâm sân hận rồi, hành động theo dục vọng, chỉ có bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người đã phạm giới mong rằng: “Người bằng ta trách mắng ta, đừng để người kém ta trách mắng sự phạm giới của ta”. Nhưng này chư hiền, nên biết rằng: người phạm giới ấy bị người kém hơn trách mắng. Vì bị người kém hơn trách mắng cho nên kẻ phạm giới ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, kẻ ấy sanh tâm sân hận rồi, nên hành động theo dục vọng, đó chỉ là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn rằng: “Mong ta được ngồi trước mặt đức Thế Tôn, ta sẽ hỏi đức Thế Tôn để Ngài sẽ thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe, chớ đừng để Tỳ kheo khác ở trước mặt đức Thế Tôn hỏi đức Thế Tôn rồi Ngài thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe”. Này chư hiền, có thể biết rằng, có Tỳ kheo khác ở trước mặt đức Thế Tôn hỏi đức Thế Tôn rồi Ngài thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe. Kẻ ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, kẻ ấy đã khởi tâm sân hận rồi, nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn rằng: “Lúc các Tỳ kheo vào làng, mong rằng ta đi trước nhất, đừng để một Tỳ kheo nào khác vào làng trước nhất ”. Này chư hiền, nên biết rằng, khi các Tỳ kheo vào làng có Tỳ kheo khác đi trước nhất. Khi các Tỳ kheo vào làng có Tỳ kheo khác đi trước nhất, vì có Tỳ kheo khác đi trước nhất các Tỳ kheo , nên vị ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, kẻ ấy đã khởi tâm sân hận rồi, nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người trong lòng khởi lên ước muốn như vầy: “Khi các Tỳ kheo đã vào nhà tín thí, mong rằng ta được chỗ ngồi trước nhất, được nước rửa trước nhất, được đồ ăn trước nhất, chớ đừng để vị Tỳ kheo nào khác. Khi các Tỳ kheo đã vào nhà tín thí, thì được chỗ ngồi trước nhất, được nước rửa trước nhất, được đồ ăn trước nhất”. Này chư hiền, có thể biết rằng: “Có Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo đã vào nhà tín thí rồi, ngồi chỗ ngồi trước nhất, được nước rửa trước nhất, được đồ ăn trước nhất”. Do đó vị ấy sanh tâm sân hận, vị ấy đã sanh tâm sân hận nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn như vầy: “Khi các Tỳ kheo đã ăn xong, thu cất bát, mong cho ta nói pháp cho các cư sĩ nghe để khuyến phát siêng năng, dạy dỗ tất cả để cho các cư sĩ được hoan hỷ, chớ đừng để Tỳ kheo khác khi các Tỳ kheo đã ăn xong, thu cất bát, thuyết pháp cho các cư sĩ nghe để khuyên họ siêng năng, dạy dỗ họ để cho họ được hoan hỷ”. Này chư hiền, nên biết như vầy, có vị Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo đã ăn xong, thu cất bình bát cho đến khiến cho các cư sĩ được hoan hỷ. Vì có Tỳ kheo khác khi các Tỳ kheo đã ăn xong, thu cất bình bát cho đến khiến cho các cư sĩ được hoan hỷ, nên vị ấy đã sanh lòng sân hận. Này chư hiền, kẻ ấy hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn như vầy: “Nếu có cư sĩ vào vườn chúng tăng, mong rằng ta cùng cư sĩ đàm luận, nói bàn, đừng để Tỳ kheo khác, khi có cư sĩ vào vườn chúng tăng, cùng họ đàm luận, nói bàn”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác khi có cư sĩ vào vườn chúng tăng rồi, cùng họ đàm luận, nói bàn. Vì có Tỳ kheo khác khi cư sĩ vào vườn chúng tăng rồi, cùng họ đàm luận, nói bàn, cho nên vị ấy sanh lòng sân hận. Này chư hiền, kẻ ấy đã sanh lòng sân hận rồi, nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước nguyện rằng: “hãy khiến cho nhà vua, đại thần, Bà la môn, cư sĩ không một ai mà không biết đến ta, đừng để cho Tỳ kheo khác được nhà vua, đại thần, Bà la môn, cư sĩ ai cũng biết đến”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác được nhà vua, đại thần biết đến, và các Bà la môn, cư sĩ, không ai mà không biết đến. Vì có các Tỳ kheo khác được nhà vua, đại thần biết đến, và được Bà la môn, cư sĩ ai cũng biết đến, vị ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, vị ấy đã sanh tâm sân hận, nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên mong ước rằng: “Hãy khiến cho ta được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường, chớ đừng để Tỳ kheo khác được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường. Vì có Tỳ kheo khác được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường, nên vị ấy nỗi tâm sân hận. Này chư hiền, vị ấy đã nỗi tâm sân hận nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên mong ước rằng: “Hãy khiến cho ta được áo quần, giường chõng, thuốc men trị bệnh, chớ đừng để Tỳ kheo khác được áo quần, giường chõng, thuốc men trị bệnh. Này chư hiền, có thể rằng: “Có Tỳ kheo khác được áo quần, giường chõng, thuốc men trị bệnh. Vì có Tỳ kheo khác được áo quần, giường chõng, thuốc men trị bệnh nên vị ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, vị ấy đã sanh tâm sân hận rồi nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người nếu có vi phạm hạnh có trí, xả bỏ vô lượng các ác bất thiện, cầu dục hạnh, đừng có làm việc này: hoặc cùng với người không phải Sa môn mà cho người ấy hành Sa môn, hoặc cùng với người chẳng phải là Sa môntrí huệ mà cho là Sa môntrí huệ; không nên cầu ngồi tòa trên mà cầu ngồi tòa trên; không có định mà cho là có định, ở chỗ bất tịnh mà cho là thanh tịnh. Này chư hiền, như vậy kẻ ấy đối với các vị phạm hạnhtrí tuệ lại có vô lượng các ác bất thiện hạnh như vậy, biết có việc làm này: biết cùng với người không phải là Sa môn cho là không phải Sa môn; cùng với người không phải là Sa môntrí tuệ, biết đó là Sa môn không có trí tuệ, cùng với người không nên cầu tòa trên mà cầu tòa trên, người không có định biết là không có định, cùng với người bất tịnh, biết là bất tịnh.

Này chư hiền, cũng giống như có người ở chợ búa hay nhà thợ rèn mang về cái bát bằng đồng đầy đồ bất tịnh bên trong, lại có một cái nắp đậy lên trên. Nếu mang nó đến chỗ đông người, những người kia thấy bát đồng ấy đều muốn được ăn, tỏ ý ưa thích, không biết nó là đồ bất tịnh. Hoặc số đông người kia mang cái bát đồng ấy đến một chỗ và dở nó ra, nếu có người muốn ăn liền không muốn ăn, há lại người mang bát ấy lại muốn ăn sao?

Này chư hiền, như vậy nếu người phạm hạnhtrí tuệ, làm vô lượng các ác bất thiện hạnh như vậy, cùng với người không phải Sa môn mà cho là Sa môn hạnh , cùng với người Sa môn không có trí huệ mà cho là Sa môntrí huệ; không nên cầu tòa trên mà cầu tòa trên; không có định mà cho là có định; cùng với người bất tịnh mà cho là thanh tịnh. Này chư hiền, như vậy người ấy đối với các vị phạm hạnhtrí tuệ, có vô lượng các ác bất thiện pháp như vậy, biết rằng cùng ở với chẳng phải là Sa môn là chẳng phải Sa môn; cùng ở với Sa môn không có trí tuệ là chẳng phải Sa môntrí tuệ, cùng với người không nên cầu tòa trên mà cầu tòa trên; cùng với người không có định là không có định; cùng với người bất tịnhbất tịnh.

Này chư hiền, người như vậy không nên gần gũi, không nên cung kính, không nên thừa sự. Nếu Tỳ kheo không nên gần gũi, cung kính, lễ báicung kính lễ bái thì kẻ ấy mãi mãi mất điều lợi ích, đau khổ, tương ưng với đường ác. Cho nên, này chư hiền, người như vậy chớ nên gần gũi, chớ nên cung kính lễ bái.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên mong ước rằng: “Ta có phạm giới không muốn cho người khác biết ta có phạm giới”. Này chư hiền, có thể biết rằng: Người ấy có phạm giới, nếu có người khác biết người ấy phạm giới. Người khác dù có biết, nhưng tâm vị ấy không sân hận. Này chư hiền, do tâm không sân hận, nên dục hữu sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên mong ước: “Nếu ta có phạm giới, hãy nói tội ta chỗ vắng vẻ, chớ đừng nói tội ta ở giữa chúng”. Này chư hiền, có thể biết rằng: người phạm giới ấy bị nói ra giữa chúng, chớ không nói ở chỗ vắng vẻ. Tuy phạm giới bị nói ra giữa chúng nhưng tâm vị ấy không sân hận. Này chư hiền, do tâm không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên mong ước rằng: “Hãy để người bằng ta nói sự phạm giới của ta, chứ đừng để kẻ không bằng ta nói sự phạm giới của ta”. Này chư hiền, có thể rằng: người phạm giới ấy bị người không bằng mình nói chớ không phải người không bằng mình nói. Bị người không bằng mình nói về sự phạm giới của mình nhưng tâm vị ấy vẫn không giận. Này chư hiền, do tâm vị ấy vẫn không giận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không có mong ước rằng: “Mong ta ngồi trước đức Thế Tôn và hỏi đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn sẽ thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe, chớ đừng để Tỳ kheo khác ngồi trước đức Thế Tôn và hỏi đức Thế Tôn để đức Thế Tôn thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe”. Này chư hiền, có thể biết rằng: có Tỳ kheo khác ngồi trước đức Thế Tônđức Thế Tôn thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe. Dù có vị Tỳ kheo khác ngồi trước đức Thế Tôn hỏi đức Thế Tôn để Ngài thuyết pháp cho các Tỳ kheo, nhưng tâm vị ấy không sân hận. Này chư hiền, nếu tâm không sân hận, thì dục hữu và sở hành, đó là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không có ước muốn rằng: “Lúc các Tỳ kheo vào làng, mong rằng ta đi trước nhất, chớ đừng có vị Tỳ kheo nào khác đi trước nhất ”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo vào làng thì đi trước. Dù có Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo vào làng thì đi trước, nhưng tâm vị ấy không sân hận. Này chư hiền, do tâm ý không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không có mong ước rằng: “Khi các Tỳ kheo đã vào nhà tín thí, ta được nhận nước rửa và đồ ăn trước nhất, chớ đừng để Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo đã vào nhà tín thí, thì ngồi ở trước nhất, thọ nhận nước rửa và đồ ăn trước nhất”. Này chư hiền, có thể rằng: “Có Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo đã vào trong thì được ngồi trước nhất, thọ nhận nước rửa và đồ ăn trước nhất, dù như vậy nhưng tâm vị ấy không sân hận. Này chư hiền, do tâm không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên ước muốn rằng: “Các Tỳ kheo đã ăn xong, cất bình bát, hãy khiến cho ta vì cư sĩ thuyết pháp, giáo thọ, khuyến phát tinh tấn..., giáo thọ khiến cho họ được hoan hỷ, chớ đừng để Tỳ kheo khác khi các Tỳ kheo đã ăn xong, cất bình bát, vì cư sĩ thuyết pháp, giáo thọ, khuyến phát tinh tấn..., giáo thọ tất cả khiến cho họ được hoan hỷ. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác khi các Tỳ kheo đã ăn xong, cất bình bát, vì cư sĩ thuyết pháp, giáo thọ, khuyến phát tinh tấn..., giáo thọ tất cả. Giáo thọ tất cả khiến cho họ được hoan hỷ, nhưng vị ấy vẫn không có tâm sân hận. Này chư hiền, vì vị ấy không có tâm sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên mong ước rằng: “khi cư sĩ vào vườn của tăng chúng, ta sẽ đàm luận với họ, đừng để Tỳ kheo khác đàm luận với cư sĩ khi họ vào vườn của tăng chúng”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác đàm luận với cư sĩ khi họ vào vườn của tăng chúng. Dù có Tỳ kheo khác đàm luận với cư sĩ khi họ vào vườn của tăng chúng mà tâm vị ấy vẫn không sân hận. Này chư hiền, do tâm vị ấy vẫn không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên ước nguyện rằng: “Hãy khiến cho nhà vua, đại thần, Bà la môn, cư sĩ không một ai không biết đến ta, chớ đừng để Tỳ kheo khác được vua, đại thần, Bà la môn, cư sĩ ai cũng biết đến”. Này chư hiền, có thể rằng: có vị Tỳ kheo khác được vua, đại thần, Bà la môn, cư sĩ ai cũng biết đến. Dù như vậy nhưng tâm vị ấy vẫn không sân hận. Này chư hiền, do tâm vị ấy không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên ước nguyện rằng: “Hãy khiến cho ta được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường, chớ đừng để Tỳ kheo khác được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường. Dù như vậy nhưng tâm vị ấy vẫn không sân hận. Này chư hiền, do tâm không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên ước nguyện rằng: “Hãy khiến cho ta được y phục, giường chõng, thuốc men chữa bệnh, chớ đừng để Tỳ kheo khác được áo quần, giường chõng, thuốc men trị bệnh. Này chư hiền, có thể rằng: “Có Tỳ kheo khác được y phục, giường chõng, thuốc men chữa bệnh. Dù vị Tỳ kheo khác được y phục, giường chõng, thuốc men chữa bệnh nhưng tâm vị này vẫn không sân hận. Này chư hiền, do tâm không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, như vậy người đó đối với vị phạm hạnhtrí tuệ, thích được vô lượng chư thiện pháp hạnh nên không biết là cùng câu hội với Sa môn mà nói là không phải Sa môn, cùng câu hội với Sa môntrí huệ mà nói không phải Sa môntrí huệ; cùng câu hội với vị thượng tòa mà nói không phải vị thượng tòa, cùng câu hội với người có định mà nói là không có định, cùng câu hội với vị thanh tịnh mà nói là không thanh tịnh. Như vậy, này chư hiền, hoặc có người đối với vị phạm hạnhtrí tuệ, như vậy có vô lượng các thiện hạnh đều biết rõ, cùng câu hội với Sa môn thì biết là cùng câu hội với Sa môn, cùng câu hội với Sa môntrí huệ thì biết là cùng câu hội với Sa môntrí huệ; cùng câu hội với người có định nên biết cùng câu hội với người có định, cùng câu hội với người thanh tịnh nên biết là cùng câu hội với người thanh tịnh.

Này chư hiền, giống như có người ở chợ búa hay nhà thợ rèn mang về cái bát bằng đồng, trong bát chứa đầy đồ ăn cao lương mỹ vị, trên cái bát có cái nắp đậy lại rồi người ấy mang đến chỗ đông người, nhiều người thấy cái bát ấy đều không muốn ăn, không ưa thích, cho đó là đồ bất tịnh. Họ nói rằng: đó là đồ đựng bất tịnh, đó là đồ đựng bất tịnh! Người ấy mang bát đồng đến chỗ đông người rồi dở nắp ra, thì dù cho người không muốn ăn cũng muốn ăn, há lại người thấy ở trước mà nay không muốn ăn sao?

Này chư hiền, như vậy hoặc có người đối với vị phạm hạnhtrí tuệ, có vô lượng các thiện hành mà không thể biết được: cùng câu hội với Sa môn mà nói là không phải Sa môn, cùng câu hội với Sa môntrí huệ mà nói không phải Sa môntrí huệ; cùng câu hội với vị thượng tòa mà nói không phải thượng tòa, cùng câu hội với người có định mà nói là không có định, cùng câu hội với vị thanh tịnh mà nói là không thanh tịnh.

Như vậy, này chư hiền, hoặc có người đối với vị phạm hạnhtrí tuệ, có vô lượng các thiện hạnh. Sau đó mới biết là cùng câu hội với Sa môn đúng là cùng câu hội với Sa môn, cùng câu hội với Sa môntrí huệ đúng là cùng câu hội với Sa môntrí huệ; cùng câu hội với vị thượng tòa biết chính đó là thượng tòa; cùng câu hội với người có định biết là có định, cùng câu hội với người thanh tịnh biết đó là thanh tịnh. Như vậy, này chư hiền, người ấy nên cung kính, thừa kếlễ bái. Tỳ kheo nên gần gũi, nên cung kính, nếu cung kính thì nên thừa kế, nếu thừa kế thì nên thực hành. Người thực hành như vậy mãi mãi được lợi ích an lạc. Cho nên, này chư hiền, người như vậy cần phải thân cận, cung kínhthừa kế.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Kiền Liên cũng có mặt ở trong hội tòa, tôn giả nói với tôn giả Xá Lợi Phất rằng:

–Này tôn giả Xá Lợi Phất, nay tôi muốn nói một thí dụ, Ngài có cho phép không?

–Hãy nói đi, này hiền giả Mục Kiền Liên.

–Thưa tôn giả Xá Lợi Phất, thuở xưa ở trong nước Kỳ Xà Quật, nước La Duyệt Kỳ, này tôn giả Xá Lợi Phất, vào lúc sáng sớm tôi thức dậy, mặc y phục mang bát đến La Duyệt Kỳ để khất thực. Trong khi tôi đi khất thựcLa Duyệt Kỳ, tôi đến nhà một thợ xe, thấy vô niệm Mãn Tử ở nhà một thợ xa khác, thấy người thợ đang đẽo trục xe. Gã vô niệm Mãn Tử ở nhà thợ làm xe nghĩ rằng: “Người thợ xe này đẽo trục xe. Hãy đẽo gọt chỗ này như thế này. Cái trục xe nay có chỗ xấu kia đã được đẽo gọt”. Gã vô niệm Mãn Tử kia, lúc ở nhà thợ làm xe nghĩ rằng: “Người thợ này như ý nghĩ của nó, cầm búa đẽo gọt trục xe”. Khi đó vô niệm Mãn Tử liền nói: “Người thợ làm xe này đã biết ý ta khi sữa trục xe. Như chỗ đã được đẽo gọt thì trục xe như vậy sẽ thuận lợi không còn trở ngại”.

Như vậy, thưa tôn giả Xá Lợi Phất, nếu có người dua nịnh dối trá, huyễn thuật, không tín, không có tín, giải đãi, không tinh tấn, ý nghĩ tán loạn không có định tĩnh, ác trí, ý tán loạn, các căn không định, đối với giới hạnh noãn, không phân biệt được Sa môn hạnh. Nhưng tôn giả Xá Lợi Phất đã biết tâm niệm của họ làm cho họ được giải thoát.

–Thưa tôn giả Xá Lợi Phất, nếu có người không có dua nịnh, dối trá, không phải huyễn thuật, có tín, tín nhạo hành tinh tấn, ý thường định, trí tuệ học giới cung kính, phân biệt rộng rãi hạnh Sa môn. Kẻ ấy theo tôn giả Xá Lợi Phất nghe thuyết pháp xong, sung sướng như được uống, sung sướng như được ăn, miệng và ý đều thọ trì.

–Thưa tôn giả Xá Lợi Phất, giống như con gái Sát Lợi, con gái của Bà la môn, con gái của cư sĩ hay con gái của công sư, tắm rửa sạch sẽ, lấy hương thoa khắp thân thể mặc áo mới tinh. Giả sử có người đến với nàng, sanh lòng từ mẫn, muốn nàng được lợi ích, muốn khiến cho nàng được an ổn, nên đem tràng hoa sen xanh, hoặc tràng hoa Chiêm bặc, hoặc tràng hoa Bà sư, hoặc tràng hoa A Ðề Ma Ða đến tặng nàng. Người con gái ấy nhận cả hai tay, dùng trang sức trên đầu.

Thưa tôn giả Xá Lợi Phất, cũng vậy, hoặc có người không có dua nịnh, dối trá, cũng không phải huyễn thuật, cũng không bất tín, có thể thực hành tinh tấn, tâm ý thường định, có trí tuệ, cung kính sự học, học giới, rộng phân biệt hạnh Sa môn. Người ấy theo tôn giả Xá Lợi Phất nghe pháp rồi, sung sướng như được uống, sung sướng như được ăn, miệng và ý cũng như vậy.

Tôn giả Xá Lợi Phất, thật kỳ diệu! Tôn giả Xá Lợi Phất đã vì các vị tu phạm hạnh mà tẩy trừ các điều bất thiện, an trú chỗ thiện. Lành thay thưa hiền giả! Ngài là bậc Chân nhơn.

Như thế cả hai bên tán thán lẫn nhau, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, về lại chỗ của mình.

 

PHẬT NÓI KINH CHƯ PHÁP BỔN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22251)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15998)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15013)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18922)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14398)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13560)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13539)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11804)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13220)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13918)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13240)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15012)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16146)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11075)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16436)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11882)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17577)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13688)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12838)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14840)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16369)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12069)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12741)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12876)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12755)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14150)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14091)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16446)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12367)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11012)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13178)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13145)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12989)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13482)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12707)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10209)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13685)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16248)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12955)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11626)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12650)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10778)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10971)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10924)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11863)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12734)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12601)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11297)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant