Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Cù Đàm Di Ký Quả

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11352)
Kinh Cù Đàm Di Ký Quả


PHẬT NÓI KINH CÙ ÐÀM DI KÝ QUẢ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0060 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Lưu Tống, Tam tạng Pháp sư Huệ Giản.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy một thời Bà Già Bà ở trong vườn Ni câu Lư, thành Ca Duy La Vệ, Thích Cơ Sấu, cùng chúng đại Tỳ kheo thọ tuế (an cư). Bấy giờ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, xong đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi bạch Thế tôn rằng: “Bạch đức Thế tôn, nữ nhân có thể đắc quả sa môn thứ tư được chăng? Nữ nhơn có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo được chăng?”.

Ðức Thế tôn dạy: “Thôi đi này Cù Ðàm Di, không nên nói như vậy. Nữ nhân không nên ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình xuất gia học đạo được, cạo tóc, khoác áo ca sa, nguyện suốt đời thực hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di bị đức Thế tôn ngăn cản, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, nhiễu quanh đức Thế tôn rồi trở về.

Bấy giờ các Tỳ kheo làm y của đức Thế tôn. Ðức Thế tôn không bao lâu thì đến Thích Cơ Sấu để thọ tuế (an cư). Sau khi trải qua ba tháng thọ tuế xong và đã làm y rồi. Sau khi y đã xong, ngài khoác y, ôm bát du hành trong nhơn gian.

Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di nghe các Tỳ kheo đã làm y của đức Thế tôn xong, đức Thế tôn không bao lâu nữa sẽ đến Thích Cơ Sấu để thọ tuế. Sau khi trải qua ba tháng thọ tuế xong, làm y rồi, ngài khoác y, ôm bát du hành nhân gian. Sau khi nghe tin Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di lại đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đứng qua một bên rồi, bạch đức Thế tôn: “Bạch Thế tôn, có thể nào làm cho nữ nhân đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo được chăng?”

Ðức Thế tôn lại nói: “Thôi đi này Cù Ðàm Di. Ðừng nói như vậy. Nữ nhân không nên ở trong pháp luật này vui thích xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo, cạo tóc, mặc áo ca sa, nguyện suốt đời tu hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã bị đức Thế tôn ngăn cản lần thứ hai, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn nhiễu quanh rồi ra về. Bấy giờ đức Thế tôn ở Thích Cơ Sấu đã thọ tuế an cư sau ba tháng xong, đã làm y rồi, ngài khoác y, ôm bát và đi du hành nhân gian. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di ... nhân gian.

Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã nghe tin như vậy rồi liền cùng các lão nữ nhân đi theo sau đức Thế tôn. Bấy giờ đức Thế tôn thứ lớp du hành đến Na Bà Ðề, ngài dừng chân ở Na Bà Ðề, Kỳ Ni Xá. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân Thế tôn, rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi, bạch Thế tôn: “Bạch Thế tôn, nữ nhân có cách nào để đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui, xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo được chăng?”.

Ðức Thế tôn nói lại lần thứ ba: “Thôi đi này Cù Ðàm Di. Không thể như vậy. Nữ nhân không được ở trong pháp luật này xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo, cạo tóc, mặc áo ca sa, nguyện suốt đời hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di bị Thế tôn ngăn cản lần thứ ba, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn nhiễu quanh rồi đi ra.

Lúc ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di chân tay lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc. Tôn giả A nan từ xa trông thấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di chân tay lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa mà khóc, thấy xong tôn giả hỏi: “Cù Ðàm Di? Vì lý do gì mà tay chân lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc như vậy?”. Cù Ðàm Di thưa: “Thưa tôn giả A nan, nữ nhân không được ở trong pháp luật này, không được tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo”. Tôn giả A nan nói: “Này Cù Ðàm Di, hãy đứng dậy, để tôi đi đến chỗ đức Thế tôn và thưa việc này cho”.

Bấy giờ tôn giả A nan đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân Thế tôn xong đứng qua một bên. Tôn giả A nan đứng qua một bên rồi bạch rằng: “Bạch Thế tôn, nữ nhân có thể đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, bỏ nhà học đạo được chăng?”. Ðức Thế tôn dạy: “Này A nan, thôi đi đừng nói nữa. Nữ nhân không được ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo. Này A nan, nếu nữ nhân được ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài. Này A nan, ví như gia đình có nhiều người nữ, ít người nam thì gia đình này có hưng thịnh lên không?”. - Bạch Thế tôn, không thể.

-Cũng vậy, này A nan, nếu cho nữ nhân được xuất gia ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh sẽ không được tồn tại lâu dài. Này A nan, giống như trong ruộng lúa dé, lúa tẻ đang lên phơi phới, nữa chừng thì bị mưa đá làm cho tổn hại. Ðám ruộng tốt ấy nhân vì mưa đá nên bị bại hoại. Cũng vậy này A nan, nếu có nữ nhân ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài.

Tôn giả A nan lại bạch: “Bạch Thế tôn, Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đem lại lợi ích cho Thế tôn. Sau khi thân mẫu Thế tôn mạng chung thì Cù Ðàm Di đã nuôi lớn Thế tôn bằng dòng sữa của bà”.

Ðức Thế tôn dạy: “Ðúng vậy, này A nan, Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đem lại cho ta nhiều lợi ích. Khi thân mẫu của ta mạng chung thì bà đã dùng sữa của bà để nuôi lớn ta. Nhưng này A nan, ta cũng đã đem lại nhiều lợi ích cho Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di. Nhờ ta mà bà quy y ta (Phật), quy y phápquy y Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ đối với Phật pháp, không nghi ngờ đối với chúng tăng, không nghi ngờ đối với khổ, tập, tận, đạo, đầy đủ tín tâm, giới cấm, bác văn, bố thí, đầy đủ trí tuệ, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp sát, trừ nghiệp không cho mà lấy, tà dâm, vọng ngôn, cho đến trừ bỏ việc uống rượu, xa lìa việc uống rượu. Này A nan, nếu có người nhờ người khác mà được quy y Phật, quy y phápquy y Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ Phật, không nghi ngờ pháp, không nghi ngờ Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ đối với khổ, tập, tận, đạo, đầy đủ tín tâm, giới cấm, bác văn, bố thí, đầy đủ trí tuệ, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp sát, trừ nghiệp không cho mà lấy, tà dâm, vọng ngôn, cho đến trừ bỏ việc uống rượu, xa lìa việc uống rượu. Này A nan, giả như người này suốt đời cúng dường cho người kia y phục, giường chõng, thuốc thang chữa bệnh lúc đau ốm, mà chẳng lẽ người kia lại không báo ơn sao?

Lại nữa này A nan, nữ nhơn phải phụng hành tám trọng pháp này và không được vi phạm. Nữ nhơn phải suốt đời trì giới này. Này A nan, cũng như người đánh cá giỏi hay đệ tử của y vào trong nước sâu để thả lưới, phải đắp đập trong đó để giữ nước không cho chảy ra ngoài. Cũng vậy này A nan, nữ nhân phải phụng hành tám trọng pháp, không được vi phạm. Nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời. Tám giới đó là những gì?

Này A nan, Tỳ kheo ni phải cầu thọ giới cụ túc nơi Tỳ kheo. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhơn tuyên bố trọng pháp thứ nhất, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni mỗi nữa tháng phải đến thọ lễ tiết (thọ giáo) nơi Tỳ kheo. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ hai, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu nơi vùng không có Tỳ kheo, thì Tỳ kheo ni không được thọ an cư. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ ba, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni sau khi thọ an cư phải đối trước hai bộ chúng thỉnh cầu chỉ rõ về ba sự thọ tuế: thấy, nghe và nghi. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tư, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu Tỳ kheo không cho phép Tỳ kheo ni thưa hỏi thì Tỳ kheo ni không được thưa hỏi Tỳ kheo về khế kinh, luật hoặc A tỳ đàm. Này A nan, nếu Tỳ kheo cho phép thì Tỳ kheo ni mới được thưa hỏi Tỳ kheo về khế kinh, luật hoặc A tỳ đàm. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ năm, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni không được phép nói về điều trái phạm thấy, nghe và nghi của Tỳ kheo, nhưng Tỳ kheo được quyền nói điều trái phạm về thấy, nghe và nghi của Tỳ kheo ni. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ sáu, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni nếu phạm Tăng già bà thi sa thì phải đối trước hai bộ chúng hành ý hỷ trong vòng mười lăm ngày. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ bảy, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni dù đã thọ giới cụ túc đến một trăm năm, nhưng đối với một vị Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc vẫn phải cúi lạy sát chân, phải cung kính, vâng lời. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tám, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố tám trọng pháp này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di phụng trì tám trọng pháp ấy thì được ở trong pháp luật này mà học đạo, được thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni. Khi ấy tôn giả A nan nghe đức Thế tôn dạy, khéo nhận lãnh, tư duy, tụng tập, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, nhiễu quanh rồi đi ra đến chỗ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di, đến xong nói với Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di như vầy: “Ðược rồi, này Cù Ðàm Di. Nữ nhân đã được phép ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo. Này Cù Ðàm Di, đức Thế tôn nói như vầy: “Nữ nhân phải thực hành tám trọng pháp, không được vi phạm, nữ nhân phải suốt đời giữ giới này. Những gì là tám?

Này Cù Ðàm Di, Tỳ kheo ni phải cầu thọ giới cụ túc nơi Tỳ kheo. Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhântuyên bố trọng pháp thứ nhất này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy phụng trì giới này suốt đời. Cho đến này Cù Ðàm Di, Tỳ kheo nithọ cụ túc giới một trăm năm nhưng đối trước Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc vẫn phải đảnh lễ sát chân, cung kính lễ bái vâng lời. Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tám này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân suốt đời thọ giới này.

Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhân tuyên bố tám trọng pháp này. Hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân suốt đời thọ giới này. Này Cù Ðàm Di, nếu có thể phụng trì tám trọng pháp này thì nữ nhân sẽ được ở trong pháp luật này học đạo, thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni.

Khi ấy Cù Ðàm Di thưa: “Ðúng vậy. Này tôn giả A nan, hãy nghe tôi nói một ví dụ, người trí tuệ nghe ví dụ liền hiểu rõ ý nghĩa. Thưa tôn giả A nan, ví như có người nữ Sát lợi, người nữ Bà la môn, người nữ Công sư, người nữ thường dân, tắm gội sạch sẽ, lấy hương xoa thân thể, mặc y phục mới. Hoặc có người nghĩ như vầy: “Ta thương yêu nàng, muốn làm cho nàng được lợi ích, muốn nàng được an ổn, liền đem tràng hoa sen xanh, tràng hoa Chiêm bặc, tràng hoa Mạn bà sưtràng hoa Mạn a đề mâu đa trao tặng cho nàng. Thiếu nữ ấy nhận lãnh cả hai tay, đem cài lên đầu mình”. Cũng vậy, thưa tôn giả A nan, đức Thế tôn vì người nữ mà tuyên bố tám trọng pháp này, tôi nguyện suốt đời nhận lãnh và thọ trì”.

Tôn giả A nan bảo: “Này Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di, hãy ở trong pháp luật này học đạo, thọ giới cụ túc, làm Tỳ kheo ni”. Bấy giờ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di sau này cùng các chúng Tỳ kheo ni kỳ túc với các trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo ni đồng tu phạm hạnh, đồng đi đến chỗ tôn giả A nan, đến xong cúi đầu đảnh lễ dưới chân tôn giả A nan rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi thưa tôn giả A nan: “Thưa tôn giả A nan, các Tỳ kheo ni này là bậc trưởng lão thượng tôn đều tu hành phạm hạnh. Còn các Tỳ kheo kia nhỏ tuổi, mới học đạo chưa bao lâu, vào trong pháp luật này chưa lâu. Mong rằng các Tỳ kheo này đối với các Tỳ kheo ni là những trưởng lão phải đảnh lễ, vâng lời”.

Khi ấy tôn giả A nan nói: “Thôi đi, này Cù Ðàm Di. Ðể tôi đi đến chỗ đức Thế tôn thưa hỏi việc này”. Cù Ðàm Di thưa: “Kính vâng, thưa tôn giả A nan”.

Lúc bấy giờ tôn giả A nan đi đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ đức Thế tôn và đứng qua một bên, bạch đức Thế tôn rằng: “Bạch Thế tôn, ngày hôm nay Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di cùng các Tỳ kheo ni đều là bậc trưởng lão thượng tôn đồng tu phạm hạnh, đi đến chỗ con, đến xong đảnh lễ dưới chân con rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi nói với con: “Thưa tôn giả A nan, nên biết các Tỳ kheo ni này là bậc trưởng lão thượng tôn đồng tu phạm hạnh, còn các Tỳ kheo kia là những người trẻ tuổi, học đạo chưa bao lâu và ở trong pháp luật này cũng chưa lâu. Vậy hãy bảo các Tỳ kheo này nên đối với các trưởng lão Tỳ kheo ni này xem như bậc trưởng lão mà đảnh lễ, vâng lời”. Ðức Thế tôn nói: “Thôi đi này A nan. Hãy gìn giữ lời nói này. Ngươi chớ có nói lại điều ấy nữa. Này A nan, hãy biết như điều ta biết, một điều cũng không thể bỏ được, huống gì lại nói những lời ấy.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ ấy sẽ lấy áo trải trên đất mà nói rằng: “Này các Sa môngiới hạnh, ngài có thể đi lên trên này. Thưa Sa môn tinh tấn, ngài đã làm việc khó làm khiến cho chúng tôi mãi mãi được sự lợi ích ý nghĩa”.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ ấy sẽ đem đầu tóc mình trải trên đất mà nói rằng: “Thưa Sa môn, ngài hãy đi lên trên này. Sa môn trì giới hạnh hết sức khó khăn khiến cho chúng tôi mãi mãi được ý nghĩa lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ sẽ đứng bên đường, hai tay bưng đầy thức ăn và nói rằng: “Thưa chư hiền, xin thọ nhận món ăn này, tùy ýthọ dụng để cho chúng tôi mãi mãi được an ổn, ý nghĩa và lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ sẽ tin tưởng các Sa môn giới hạnh, lấy tay dìu đỡ vào nhà, đem các vật dụng ra cúng dường và nói rằng: “Tùy ý chư hiền thọ dụng vật dụng này khiến cho chúng con mãi mãi được an ổn, ý nghĩa và lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì dù cho mặt trời, mặt trăng này có đại oai thần, có đại năng lực nhưng đối trước sức quang minh của vị Sa môn giữ giới kia vẫn không thể sánh bằng, huống nữa là đối với các hàng ngoại đạohọc thuyết khác, tệ ác thì làm sao sánh kịp.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì chánh pháp sẽ tồn tại đến ngàn năm. Thế nhưng bây giờ đã mất hết 500 năm, chỉ còn lại có 500 năm.

Này A nan, có năm việc nữ nhân không thể làm được: nữ nhân không thể thành Như lai, bậc Vô sở trước đẳng chánh giác, hoặc Chuyển luân vương, không thể làm Thiên đế thích, không thể làm Ma vương hay Ðại phạm thiên. Nhưng có năm việc mà nam nhân có thể làm được. Ðó là nam nhân có thể thành Như lai, bậc Vô sở trước đẳng chánh giác, hoặc Chuyển luân vương, Thiên đế thích, Ma vương hay Ðại phạm thiên, điều này chắc chắn có thật.

Ðức Phật thuyết như vậy, tôn giả A nan nghe đức Thế tôn dạy xong, vui mừng hoan hỷ

PHẬT NÓI KINH CÙ ÐÀM DI KÝ QUẢ 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15663)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10973)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53437)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12870)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16389)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15257)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19049)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19812)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15418)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15237)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20181)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23719)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15348)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12947)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19844)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13167)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28926)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11601)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18182)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16522)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13125)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12688)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13120)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12879)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12765)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13435)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11586)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14134)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17642)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22272)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13343)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14192)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105544)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14498)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38293)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15415)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34541)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15944)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11264)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15563)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13901)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12737)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13568)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12393)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19285)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13048)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13368)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21473)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17856)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21752)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15963)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15982)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18968)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24590)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant