Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thọ Tân Tuế

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12600)
Kinh Thọ Tân Tuế


KINH THỌ TÂN TUẾ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0061 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Tây Tấn nước Nguyệt Chi. Tam Tạng Trúc Pháp Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy, một thời đức Phật ở trong vườn Ðông Uyển Lộc Mẫu nước Xá Vệ, cùng đông đủ 500 chúng đại Tỳ kheo. Bấy giờ đức Thế tôn vào ngày rằm tháng bảy, trải tọa cụ nơi khoảng đất trống, có Tỳ kheo tăng trước sau đoanh vây. Ðức Phật bảo tôn giả A nan: “Bây giờ nơi khoảng đất trống này, ngươi hãy gấp đánh tiếng kiền chùy. Vì sao vậy ? Vì hôm nay là ngày rằm tháng bảy, chính là ngày thọ tân tuế”.

Khi ấy tôn giả A nan quỳ gối bên phải xuống đất chấp tay, rồi đọc bài kệ này :

Bậc Tịnh nhãn ai bằng

Vô sự không kén chọn.

Trí tuệ không nhiễm trước.

Những gì là thọ tuế.

Thế tôn trả lời tôn giả A nan :

Thọ tuế : ba nghiệp tịnh.

Thân, miệng, ý tạo ra.

Hai Tỳ kheo đối nhau.

Tự phơi bày lỗi lầm.

Rồi tự xưng tên tuổi.

Hôm nay chúng thọ tuế.

Tôi cũng tịnh ý thọ.

Chỉ mong thấy lỗi lầm.

Tôn giả A nan dùng kệ hỏi nghi thức thọ tuế:

Hằng sa Phật quá khứ.

Bích chi và Thanh văn.

Các đức Phật như vậy.

Hay chỉ có Thích Ca.

Thế tôn trả lời tôn giả A nan :

Phật quá khứ hằng sa.

Ðệ tử tâm thanh tịnh.

Ðều có các Phật pháp.

Ðâu chỉ Thích ca văn.

Bích chi không pháp này.

Không tuổi không đệ tử.

Một mình không bạn lữ.

Không thuyết pháp kẻ khác.

Phật Thế tôn đương lai.

Nhiều hằng hà sa số.

Họ cũng thọ tuổi này.

Như nay pháp Cù đàm.

Bấy giờ tôn giả A nan nghe lời này rồi vui mừng sung sướng, không thể tự kềm chế được, liền lên giảng đường tay cầm kiền chùy và nói như vầy : “Nay tôi đánh lên tiếng trống tín tâm của đức Như lai, các chúng đệ tử hiện hữu của đức Như lai thảy đều vân tập”. Khi ấy tôn giả A nan lại nói bài kệ này :

Hàng phục ma lực oán.

Trừ kiết sử sạch trơn.

Ðánh kiền chùy, đất trống.

Tỳ kheo nghe vân tập.

Những ai muốn nghe pháp.

Vượt qua biển sanh tử.

Nghe tiếng vi diệu này.

Thảy đều mau vân tập.

Bấy giờ tôn giả A nan đã đánh tiếng kiền chùy xong, đi đến chỗ đức Thế tôn cúi đầu lạy dưới chân ngài, đứng qua một bên, bạch đức Thế tôn rằng : “Nay đã đúng lúc, cúi mong đức Thế tôn có điều gì dạy bảo cho chúng con”. Bấy giờ đức Thế tôn bảo tôn giả A nan : “Các ngươi hãy theo thứ lớp ngồi xuống, Như lai tự biết thời”. Khi ấy đức Thế tôn ngồi trên tòa cỏ bảo các Tỳ kheo : “Tất cả các ngươi hãy ngồi trên tòa cỏ”. Các Tỳ kheo thưa : “Thưa vâng bạch Thế tôn”. Bấy giờ các Tỳ kheo đều ngồi xuống tòa cỏ. Lúc ấy đức Thế tôn im lặng quán sát các Tỳ kheo xong, liền bảo các Tỳ kheo : “Nay ta muốn thọ tân tuế. Ta có lỗi lầm gì với mọi người chăng ? Và không có phạm lỗi lầm gì về thân, khẩu, ý chăng ?”

Ðức Như lai nói như vậy xong, các Tỳ kheo im lặng không nói. Bấy giờ đức Như lai ba lần lại bảo các Tỳ kheo : “Nay ta muốn thọ tuế, song ta không có lỗi lầm gì với mọi người chăng ?”. Bấy giờ tôn giả Xá lợi phất từ tòa ngồi đứng dậy quỳ xuống, chắp tay bạch đức Thế tôn : “Các chúng Tỳ kheo quán sát về thân, khẩu, ý của đức Như lai không có lỗi lầm gì cả. Vì sao như vậy ? Vì ngày hôm nay đức Thế tôn đối với những người chưa độ thì đã độ, những người chưa giải thoát thì được giải thoát, những người chưa Niết bàn thì làm cho họ được Niết bàn, những người chưa được cứu hộ thì được cứu hộ, những người đui mù thì làm cho sáng suốt, ngài là bậc Y vương đối với những người bệnh, ngài là bậc độc tôn trong ba cõi, không ai có thể sánh kịp. Ngài là bậc tối tôn tối thượng, ai chưa khởi lên ý đạo thì ngài làm cho họ phát sanh ý đạo, những người chưa ngộ thì ngài làm cho được ngộ, ai chưa được nghe pháp thì ngài làm cho họ được nghe. Kẻ mê muội thì ngài chỉ cho họ con đường tắt để đưa họ đến chánh pháp. Do những nhân duyên đó cho nên đức Như lai không có lỗi lầm gì đối với mọi người, cũng không có lỗi lầm gì về thân, khẩu, ý của ngài cả”.

Bấy giờ tôn giả Xá lợi phất bạch đức Thế tôn : “Nay con cũng hướng về đức Như lai để tự phơi bày. Vậy con có lỗi lầm gì với đức Như lai và chúng Tỳ kheo không ?”. Ðức Thế tôn bảo : “Này Xá lợi phất, nay ngươi hoàn toàn không có những hành vi phi pháp về thân, khẩu, ý. Vì sao vậy ? Vì nay ngươi được trí tuệ không ai sánh bằng, có nhiều loại trí tuệ, vô lượng trí tuệ, vô biên trí tuệ, trí tuệ không ai sánh bằng, trí tuệ nhanh nhạy, trí tuệ sắc bén, thậm thâm trí, bình đẳng trí, ưa thích sự thiểu dục tri túc, có nhiều phương tiện, tâm niệm không sai lầm, tán loạn, tổng trì tam muội, căn nguyên cụ túc giới, thành tựu tam muội, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, thành tựu sự dõng mảnh phi thường, có thể nhẫn chịu những điều dèm pha, biết điều ác là phi pháp, tâm tánh mẫu mực, không làm điều tàn bạo, giống như Ðông cung thái tử của Chuyển luân thánh vương sẽ nối dõi địa vị của vua, quay bánh xe báu. Xá lợi phất cũng lại như vậy, quay pháp luân thanh tịnh vô thượngchư thiên, người đời và loài rồng, quỷ thần hoặc Thiên ma cũng không thể làm được. Nay những điều ngươi đã nói thường luận nghị như pháp, chưa từng sai với chơn lý”.

Bấy giờ tôn giả Xá lợi phất bạch đức Phật rằng : “Năm trăm Tỳ kheo này đều (xin) sẽ thọ tuế. Năm trăm Tỳ kheo này đều không có lỗi lầm gì với đức Như lai chăng ?”. Ðức Thế tôn bảo : “Ta cũng không có quở trách gì về hành động thân, khẩu, ý của năm trăm Tỳ kheo này. Vì sao vậy ? Này Xá lợi phất, trong đại chúng nầy hết sức thanh tịnh, không có các tỳ vết ô uế. Nay trong chúng này vị hạ tọa nhỏ nhất cũng đắc được đạo quả Tu đà hoàn, chắc chắn sẽ tiến lên và chuyển bánh xe pháp một cách bất thối. Do lý do đó nên ta không có gì phiền trách chúng này”.

Khi ấy Bằng Kỳ Xà ở trong chúng này liền từ tòa đứng dậy, đến trước đức Thế tôn, đầu mặt lạy dưới chân đức Thế tôn thưa rằng : “Nay con có điều muốn luận bàn về việc này”. Ðức Thế tôn bảo : “Nếu ngươi có điều muốn nói thì nay đã đúng lúc”.

Bằng Kỳ Xà liền ở trước đức Phật tán thán đức PhậtTỳ kheo tăng nên nói bài kệ này :

Ngày mười lăm thanh tịnh.

Năm trăm Tỳ kheo họp.

Các trói buộc đều mở.

Không ái cũng không sanh.

Ðại thánh vương chuyển luân.

Có quần thần đoanh vây.

Cùng khắp cả thế giới.

Thiên thượngthế gian.

Ðại tướng dẫn mọi người.

Ðạo sư của loài người.

Ðệ tử thích nương tựa.

Ðược Tam đạt, Lục thông.

Ðều là chơn Phật tử.

Ðã sạch hết bụi trần.

Ðoạn trừ gai ái dục.

Ngày nay tự quy y.

Bấy giờ đức Thế tôn chấp nhận những điều Bằng Kỳ Xà nói. Khi ấy Bằng Kỳ Xà suy nghĩ : “Ngày hôm nay đức Như lai đã chấp nhận những điều ta nói”, nên tôn giả rất đổi hoan hỷ, vui mừng không sao tả được, liền từ tòa đứng dậy, đảnh lễ đức Thế tôn rồi lui về chỗ ngồi. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ kheo : “Người đệ tử làm kệ tụng số một trong chúng Thanh văn của ta chính là Tỳ kheo Bằng Kỳ Xà , đã nói những lời không nghi nan, cũng chính là Tỳ kheo Bằng Kỳ Xà vậy. Bấy giờ các Tỳ kheo nghe đức Phật dạy xong hoan hỷ phụng hành

ÐỨC PHẬT NÓI KINH THỌ TÂN TUẾ.

Xét kinh Thọ Tân Tuế này do Trúc Pháp Hộ dịch, bản của nước này, bản đời nhà Tống đều có biên chép. Trong Ðơn Tạng gọi là Thọ tuế kinh, nhưng lại có sự sai biệt lớn so với kinh này. Nay dựa theo Khai nguyên lục để kiểm tra thì kinh của Ðơn tạng đúng là nội dung của kinh Thọ tuế. Tạng kinh của đời nhà Tống này cùng với nội dung của kinh Tân tuế, văn thì khác nhưng nghĩa thì giống nhau, in tuồng như cùng một bản mà người khác dịch vậy. Song theo Khai nguyên lục thì cho kinh Tân tuế chỉ có một người dịch, ý nghĩa thiếu sót, chưa rõ ràng. Nay muốn phân loại như vậy để chờ các bậc hiền triết phán định cho nên đưa kinh này vào đây.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11631)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11945)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11100)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11340)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12060)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12551)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10761)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17972)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11722)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9942)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10167)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15335)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11238)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14325)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15356)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11996)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12084)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14834)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16567)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19657)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13104)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12661)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12251)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11842)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10897)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13516)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11839)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11627)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12761)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14512)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12611)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13620)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9859)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13041)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10297)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15303)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16605)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11463)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14265)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19696)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14145)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24603)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant