Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tân Tuế

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11840)
Kinh Tân Tuế


KINH TÂN TUẾ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0062 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông Tấn, Sa môn Trúc Ðàm Vô Lan.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy một thời đức Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô độc, nước Xá vệ, cùng đông đủ tám vạn bốn ngàn vị đại chúng Tỳ kheo, tôn giả Xá lợi phất, tôn giả Mục kiền liên ... trước sau đoanh vây nghe đức Phật thuyết kinh. Ðức Phật ở giữa đại hội giống như núi Tu di là vua các hòn núi, một mình cao lớn vòi vọi như trăng rằm sáng chói giữa sao trời, hào quang uy nghiêm to lớn như vàng tía sáng mặt đất, tất cả đều có sắc vàng, trác tuyệt, đặc thù, vòi vọi, không có gì có thể so sánh được. Bấy giờ đức Thế tôn cùng đông đủ chúng Tỳ kheo, vô lượng thanh tịnh, như bầu trời không có mây. Sau ba tháng kiết hạ an cư đã xong, đã đến ngày thọ tân tuế. Các chúng Tỳ kheo im lặng chờ đợi, một lòng tư duy về đạo, an định, không có tư tưởng gì khác.

Bấy giờ hiền giả A nan liền từ tòa đứng dậy, trịch áo vai bên mặt, gối phải sát đất, quỳ xuống chắp tay đến trước đảnh lễ dưới chân đức Phật, nói bài kệ tán thán :

Ðức Thế tôn đến đây.

Với mục đích tế độ.

Ba tháng ở chỗ này.

Kỳ thọ Cô độc viên.

Sở nguyện đã đầy đủ.

Nay chính đã đúng lúc.

Ðạo sư Vô đẳng luân.

Xin tuyên bố Tân tuế.

Khi ấy đức Thế tôn nghe tôn giả A nan nói bài kệ tụng tán thán đức Phật là bậc đạt đến chơn tịch, xong ngồi qua một bên, đức Phật bảo hiền giả Mục kiền liên : “Ngươi hãy đi khắp tam thiên đại thiên thế giới, những nơi hang núi thâm u vắng vẻ, những thạch thất trên đỉnh núi cao, khắp bảo cho các chúng Tỳ kheo, các vị mới nhập đạo hay hàng cựu học, các vị chưa ngộ đạo, đều mời tụ hội tại rừng cây Kỳ Ðà này. Vì sao vậy ? Vì đức Như lai đã đến lúc ngài muốn truyền thọ Tân tuế”.

Khi ấy tôn giả Ðại Mục kiền liên lên trên hư không, vâng theo thánh chỉ của đức Phật phát ra âm thanh to lớn, bảo khắp tam thiên đại thiên thế giới biết, trong âm vang to lớn ấy tự nhiên diễn ra bài kệ, nói rằng :

Các vị ở khắp nơi.

Rừng sâu giữa núi đá.

Giờ Tân tuế đã đến.

Tâm nguyện sẽ thành tựu.

Khi ấy các Tỳ kheo ở ngay tại chỗ hay du hành trong tam thiên đại thiên thế giới nghe bài kệ thông báo rồi, mọi người đều dùng thần túc hay tất cả phương tiện, biến hiện thân hình đi đến rừng cây Kỳ đà, vườn Cấp Cô Ðộc đến trước đức Phật xin thọ Tân tuế, rồi đồng đứng qua một bên. Ðức Phật nhóm họp các đệ tử. Họ đều từ các phương quốc độ khác nhau đi đến, đồng một lúc đều hội họp gồm có 80 vạn 4 ức vị muốn thọ tân tuế. Bấy giờ đức Thế tôn bảo tôn giả A nan : “Ngươi hãy đến đánh lên tiếng kiền chùy vì nay đã đúng lúc rồi”.

Tôn giả A nan vâng lời, từ tòa đứng dậy liền đánh kiền chùy, tiếng vang khắp cõi Phật, một nước lớn của một đức Phật cho đến địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh nghe tiếng kiền chùy đều nhờ oai thần của Phật nên tất cả bệnh khổ độc thảy đều tiêu trừ đều được an ổn. Bấy giờ đức Thế tôn dùng tiếng phạm âm thanh tịnh bảo các Tỳ kheo : “Các ngươi hãy đứng dậy rút thẻ kiểm tăng số (hành xá la trù), mọi người đều đối diện nhau để sám hối những điều sai lầm, tự trách mình, cùng nhau xin lỗi các điều sai lầm, các phi pháp đã vi phạm, mọi người đều phải nhẫn nhục, hòa đồng, thanh tịnh thân, miệng, tâm để cho không còn chút ô uế nào sót lại. Khi ấy các Tỳ kheo liền vâng theo lời Phật dạy, họ đều từ tòa đứng dậy, đến trước đức Thế tôn, mỗi người mỗi người đều cùng nhau tạ lỗi, sám hối những điều sai lầm xong, trở về ngồi lại chỗ cũ.

Khi đức Phật đã thấy chúng tăng đều trở về ngồi lại chỗ cũ xong, ngài dũ lòng thương xót, nhân đó từ tòa đứng dậy, tự chắp tay hướng về các Tỳ kheo nói rằng : “Hỡi các chúng Tỳ kheo ! Hãy giữ tâm hòa thuận cùng hướng vào nhau để sám hối những lỗi lầm. Vì sao vậy ? Thân, khẩu, ý của ta thản hoặc có những lỗi lầm sai trái ; đức Như lai, bậc Vô thượng tôn, chí chơn không có sự sai lầm, các nghiệp khuyết lậu, tâm không phóng dật, không mất trí tuệ, không có tham luyến, không phá giới cấm, đối với trong hàng các Thanh vănDuyên giác, tôn đức vượt hơn chư thiên, nhân dân của thế gian hết sức lâu dài trong ba cõi nhưng không ai sánh bằng.

Lại nữa này các Tỳ kheo, nếu các giòng họ xuất gia học đạo, tu theo pháp của Sa môn, tâm tánh mỗi người khác nhau, chí nguyện không đồng, đối với sự nghiệp thành Phật ở đây phải nên thi hành, phải vâng theo sự dạy dỗ không được vi phạm. Vì sao vậy ? Nếu có Tỳ kheo ở nơi Thánh chúng kiến lập tân tuế, thân hạnh mỗi người mỗi khác, tâm niệm không đồng mà ôm lòng nịnh hót cho rằng Tỳ kheo kia không thọ nhận sự chơn chánh, không nên thọ cụ giới. Vì sao vậy ? Vì thân, khẩu, ý thanh tịnh mới là thiện chơn chánh, thọ đầy đủ giới của Phật, ôm lòng cung kính, thuận theo bậc thượng, bậc trung, bậc hạ, không có ngạo mạn, phóng túng, hỗ thẹn, khiêm cung mới phù hợp với giới pháp. Vì sao vậy ? Hành giả như vậy không có sự oán thù, ghen ghét, không có kết hận, quán xem pháp cổ kim không có rối loạn. Kiến lập Tân tuế cũng không có tâm sân hận, tự đại. Vì sao vậy ? Vì giữ giới cấm thanh tịnh. Nếu tạo lập Tân tuế, kiến lập giới tối đại mà không thanh tịnh thì không phải là đệ tử của đức Phật.

Giống như người chết, thi hài để nơi đất, vứt bỏ trong gò mã, dù cho thiên thượng nhơn gian chư thiên, nhân dân đều đem thuốc hay, thần chú, thuật giỏi, thương nhớ muốn làm cho kẻ ấy sống lại cũng không thể cứu sống được. Cũng vậy Tỳ kheo hủy phạm giới cấm, chánh thức được nhập chúng, dù có nhiều tân tuế cũng không thể tự cứu được để kiến lập tân tuế. Vì sao vậy ? Vì người ấy đã phá hủy giới thì lẽ tự nhiên phải bị quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh khổ sở độc hại, cay đắng vô lượng. Vậy các người cần phải cẩn thận.

Ðức Phật thuyết pháp xong từ tòa đứng dậy, bước ra khỏi nệm cỏ. Ngay lúc đó tam thiên đại thiên thế giớisáu thứ chấn động. Ðàn không hầu, kỷ nhạc không gãy mà tự nhiên phát ra âm thanh, ở giữa hư không mưa các loại danh hương, rải đủ thứ hoa. Khi đức Phật nói giới pháp phẩm này để bảo chúng Tỳ kheo, bấy giờ các Tỳ kheo đều ở ngay nơi chỗ ngồi của mình nhờ lời dạy chơn chánh oai thần của Phật thánh công huân sáng rạng, phổ chiếu cùng khắp, mỗi người đều tự đứng lên, trong tâm không còn ưa thích dục nữa, thường ngồi ở trên đỉnh núi, dưới gốc cây, lấy đó làm vui. Tất cả đều từ tòa ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức Phật, tự miệng họ nói lên rằng : “Tất cả các pháp đều từ Phật mà ra, Thánh là gốc của đạo, che chở tất cả bằng con mắt từ mẫn. Ngài là bậc tối tôn đặc thù, thánh đức vô thượng, siêu tuyệt không ai bằng, nguy nga vòi vọi, tuyên bố hóa đạo”.

Bấy giờ đức Như lai ở ngay chỗ tôn quý sám tạ Thánh chúng, xót thương chúng sanh rồi trở về nệm cỏ. Ðức Phật vừa ngồi lại xong, Thánh chúng cũng vậy, ai về chỗ nấy, lại ngồi xuống đúng như pháp. Bấy giờ đức Thế tôn thấy đã đến giờ thọ tuế, xót thương các hội chúng, ngài ở trước các Tỳ kheo, ba lần tác bạch đã xong, công việc hoàn tất, năm Tỳ kheo từ tòa ngồi đứng dậy kiến lập tân tuế. Vừa lập tân tuế, một vạn Tỳ kheo được thành Ðạo tích, tám ngàn Tỳ kheo được quả A la hớn. Chư thiên trên hư không, tám vạn bốn ngàn vị đều được khai hóa, đều được pháp đạo ý, vô thượng chánh chơn, giảng thuyết kinh pháp không sao kể xiết, các loại chúng sanh kiến lập ba thừa. Nay Phật thương xót hạ cố tấm lòng, ngồi trong đại chúng, độ thoát ách nguy, mười phương đều mong nhờ cứu vớt.

Khi ấy Long vương A Ðầu Hòa Nan, tất cả đều rời chỗ ở của mình, cầm nước hoa Chiên đàn, tạp hương đi đến chỗ đức Phật, đến chỗ thọ Tân tuế, quy y đức Phật cùng với Thánh chúng, cúi đầu lạy dưới chân, dùng tạp hương chiên đàn cúng dường đức PhậtTỳ kheo tăng, rồi dùng bài kệ này để tán tụng rằng :

Dù ở trên đỉnh núi. Ngồi dưới bóng cây râm.

Du hành trên biển cả. Ôm lòng tham, sân hận.

Ðến rồi lập Tân tuế. Hằng ức chúng sanh họp.

Cúng dường phụng thờ Phật. Ðược thành cửa cam lồ.

Bấy giờ Hải Long Vương đem viên ngọc Xích chơn châu hóa làm giao lộ, gác tràng thượng diệu, dài rộng 400 dặm do vàng, tía, lưu ly hiệp lại tạo thành, dùng tay nắm giữ, đi trên không trung. Ra khỏi Long cung, từ gác giao lộ lấy nước ao có tám mùi vị, dùng dòng nước sạch rưới lên mặt đất để cúng dường đức Như lai và chúng Tỳ kheo, dùng gác giao lộ dâng lên đại thánhTỳ kheo tăng, lấy ngọc anh lạc rải lên Phật và thánh chúng liền nói bài kệ :

Thanh tịnh như hư không. Ðồng nhất tự nhiên vô.

Cấm giới rất thanh tịnh. Hơn ngọc diệu minh châu.

Hằng hà sa số chúng. Ngồi ở nơi đại hội.

Ðều cúng dường an trụ. Và các chúng Thanh văn.

Bấy giờ mười phương các vị Bồ tát, Thiên long, Thần vương đều từ mười phương đi đến để hội họp, hóa ra nhiều vật cúng dường kỳ lạ để cúng dường đức Thế tôn và chúng Tỳ kheo, đảnh lễ quy y, thưa hỏi và thọ trì kinh điển. Ai nấy đều như vậy, hoàn toàn không có gì khác, đều đến đảnh lễ, đều phát đạo ý vô thượng chánh chơn. Khi ấy thiên nhơn mỗi mỗi đều phát tâm cúng dường đức Thế tôn và các Thánh chúng, dùng bài kệ để tán thán :

Trong tâm đã thanh tịnh.

Ðệ nhất không nghĩ bàn.

Thánh chúng tối tôn trưởng.

Ngồi ở trong hội này.

Vứt bỏ tất cả tưởng.

Khéo trừ các cấu uế.

Ngày nay phụng cúng dường.

Với hết lòng cung kính.

Khai hóa cứu các nạn.

Tất cả các trần lao.

Cấm giới đã thanh tịnh.

Như ngọc bảo minh nguyệt.

Tâm thường tư duy chánh.

Ðoạn các kết sân nhuế.

Hôm nay bậc Ly cấu.

Hiệp hội lập Tân tuế.

Dạy dỗ tâm khó dạy.

Tuân hành như Thái sơn.

Thường hành pháp vô ngại.

Phật an lập Tân tuế

Khi ấy Thiên nhân nói kệ này xong, đảnh lễ dưới chân đức Phật, bỗng nhiên biến mất, đều trở về cung điện của mình, thảy đều vui mừng, tự vui với pháp. Bấy giờ đức Thế tôn hiện ra bóng mát lớn, các báu giao lộ để che thánh chúng, bèn nói bài kệ này :

Giới hạnh thật thanh tịnh.

Việc làm khó theo kịp.

Hôm nay thí điều vui.

Che khắp lập Tân tuế.

Dâng lên An trụ tử.

Hộ giới thật thanh tịnh.

Như chim thích lông mình.

Oai Phật hộ Tân tuế.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo : “Nay Phật Thế tôn tuy Tân tuế một năm một hội tu hành pháp tắc thanh tịnh hộ đạo, giữ gìn thân khẩu ý ba sự không ô uế, phụng hành thập thiện, tứ đẳng, lục độ, trừ bỏ sáu tình, ba độc, năm cái, mười hai sợi dây lôi kéo, thanh tịnh như mặt trời chiếu soi thiên hạ, ánh sáng chiếu diệu, bóng tối tiêu trừ, nhập vào ánh sáng đạo vô thượng chơn chánh, tất cả hòa đồng, khổ vui không có hai mới đúng với đạo pháp”. Lúc đó đức Phật bèn nói bài tụng :

Chư Phật ra đời vui.

Nói kinh pháp cũng vui.

Thánh chúng hòa đồng vui. 

Thường hòa được an lạc.

Ðức Phật nói như vậy, các chúng Tỳ kheo chư thiên, rồng, quỷ thần, A tu luân, nhơn dân của thế gian nghe đức Phật dạy không ai không hoan hỷ, đảnh lễ rồi lui ra.

Thế tôn du hànhXá vệ.

Vì các đệ tử nói như vậy.

Tất cả đều ở hội Kỳ thọ.

Nay Bát hòa lan theo thường lệ.

Xá lợi phất chắp tay bạch Phật

Mong Thế tôn nói Bát hòa lan.

Khi ba cõi tôn xưng nói ra.

Làm pháp gì Tỳ kheo tự tịnh ?

Xá lợi phất vì ta trải cỏ.

Dưới gốc cây ra sức trừ ma.

 Nếu ai trải cỏ cũng như vậy.

Ðời nay kẻ ấy phải thanh tịnh.

Như bậc hiền giả ngồi.

Ðó là vô sở úy.

Ngồi an lạc không dục.

An ổn trong ba cõi.

Kiết hạ nay đã xong.

Ðó là đệ tử Phật.

Hãy tự mình phân biệt.

Thương xót khắp thế gian.

Là tháng lớn trong năm.

Là giác đệ nhất trí.

Hãy tự bỏ thân hành.

Kiến đoạn bao nhiêu khổ.

Ngài nói các tội não.

Biết rõ vô số khổ.

Ðó là đắc Ðạo tích.

Nay vì Bát hòa lan.

Mỏng tham dục sân nhuế.

Cũng hay trừ gốc ái.

Có thể đoạn sanh tử.

Cũng hết căn não tưởng.

Tự đến được thiên thượng.

Cũng lại sanh nhơn gian.

Ðó là được hai đạo.

Nay vì Bát hòa lan.

Ðã được sanh lên trời.

Thì không còn đọa lạc.

Khi đã sanh lên trời.

Ðã diệt hết các ái.

Pháp đệ nhất thế gian.

Tôn giả đã đạt được.

Ðó là được hai đạo.

Nay nhờ Bát hòa lan.

Tất cả các ác não. 

Ðã hết, được giải thoát.

Ðã được bốn cam lồ.

Ðó là vô sở úy.

Ðã diệt hết bóng tối.

Hướng về tất cả khổ.

Ðó là tám tối đạo.

Nay là Bát hòa lan.

Ðã xong một tháng liền được một trí, đã đến tháng thứ hai liền được hai trí, một lúc ba tháng liền được ba trí, vui thích ba trí, nay là Bát hòa lan. Vị ấy đã trị lành bốn ghẻ lỡ, không còn lưu dư, đã vượt qua bờ bên kia, đã được an ổn. Ðã qua bốn tháng rồi, bậc chẳng còn gì nữa, đã thành công đức nay là Bát hòa lan, có thể hàng phục Long đầu, Nan đầu, Hòa la, chấn động núi Tu di và nước biển, cho đến cõi trời cũng đều bị chấn động. Bọn của ông Mục kiền liên nay là Bát hòa lan.

Tối hiền giả tự giác.

Nên các xứ đã hết.

Là phước giúp thế gian.

Phật tự nói lời này.

Thường độc hành dưới cây.

thí dụ số đông.

Phật Bích chi tối thượng.

Nay là Bát hòa lan.

Ba chỗ không đắm trước.

Chúng vì ý thanh tịnh.

Ba thân đã ổn định.

Vốn đã lìa kiêu mạn.

Tại ba cõi vô dục.

Ðược tịnh ý bất động.

An ổn như Tu di.

Nay là Bát hòa lan.

Ðã hành bốn đều chánh.

Bốn đạo đã được định.

Phật bảohiền giả.

Tăng phước đức mọi người.

Chỗ cúng thí tối an.

Trọn không thể bại hoại.

Phật được các trí huệ.

Nay là Bát hòa lan.

Trì giới đã đầy đủ. 

Bất động trước các lực.

Pháp thực y bị phục.

Thường ưa ở trong núi.

Ðó là hạnh kiên cố.

Ðầy đủ không sứt mẻ.

Chỗ hành giả thanh tịnh.

Nay là Bát hòa lan.

Trì giới trừ các ác.

Chúng chắp tay thọ pháp.

Ðược tất cả hướng về.

Các ma đều hàng phục.

Chư thiên cùng thiện nhân

Khen ngợi giới cụ túc.

Không còn thấy các ma.

Nay là Bát hòa lan. 

PHẬT NÓI KINH TÂN TUẾ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28106)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29178)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33055)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21622)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30438)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31043)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 36825)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32045)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 26840)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20443)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22066)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23825)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22699)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 22980)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30186)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 29883)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23000)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22200)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21653)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 27997)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19114)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20004)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30716)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41291)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32507)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19004)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 33813)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24776)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23534)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25176)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27561)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24829)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23667)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58301)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23060)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20708)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 27906)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28705)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19080)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24358)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21291)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23624)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28463)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29210)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17557)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 30816)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25130)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18835)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 19980)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23777)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 18917)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 19974)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 19915)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24692)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19287)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22401)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61531)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 30959)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 21926)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
(Xem: 19556)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant