Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tân Tuế

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11924)
Kinh Tân Tuế


KINH TÂN TUẾ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0062 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông Tấn, Sa môn Trúc Ðàm Vô Lan.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy một thời đức Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô độc, nước Xá vệ, cùng đông đủ tám vạn bốn ngàn vị đại chúng Tỳ kheo, tôn giả Xá lợi phất, tôn giả Mục kiền liên ... trước sau đoanh vây nghe đức Phật thuyết kinh. Ðức Phật ở giữa đại hội giống như núi Tu di là vua các hòn núi, một mình cao lớn vòi vọi như trăng rằm sáng chói giữa sao trời, hào quang uy nghiêm to lớn như vàng tía sáng mặt đất, tất cả đều có sắc vàng, trác tuyệt, đặc thù, vòi vọi, không có gì có thể so sánh được. Bấy giờ đức Thế tôn cùng đông đủ chúng Tỳ kheo, vô lượng thanh tịnh, như bầu trời không có mây. Sau ba tháng kiết hạ an cư đã xong, đã đến ngày thọ tân tuế. Các chúng Tỳ kheo im lặng chờ đợi, một lòng tư duy về đạo, an định, không có tư tưởng gì khác.

Bấy giờ hiền giả A nan liền từ tòa đứng dậy, trịch áo vai bên mặt, gối phải sát đất, quỳ xuống chắp tay đến trước đảnh lễ dưới chân đức Phật, nói bài kệ tán thán :

Ðức Thế tôn đến đây.

Với mục đích tế độ.

Ba tháng ở chỗ này.

Kỳ thọ Cô độc viên.

Sở nguyện đã đầy đủ.

Nay chính đã đúng lúc.

Ðạo sư Vô đẳng luân.

Xin tuyên bố Tân tuế.

Khi ấy đức Thế tôn nghe tôn giả A nan nói bài kệ tụng tán thán đức Phật là bậc đạt đến chơn tịch, xong ngồi qua một bên, đức Phật bảo hiền giả Mục kiền liên : “Ngươi hãy đi khắp tam thiên đại thiên thế giới, những nơi hang núi thâm u vắng vẻ, những thạch thất trên đỉnh núi cao, khắp bảo cho các chúng Tỳ kheo, các vị mới nhập đạo hay hàng cựu học, các vị chưa ngộ đạo, đều mời tụ hội tại rừng cây Kỳ Ðà này. Vì sao vậy ? Vì đức Như lai đã đến lúc ngài muốn truyền thọ Tân tuế”.

Khi ấy tôn giả Ðại Mục kiền liên lên trên hư không, vâng theo thánh chỉ của đức Phật phát ra âm thanh to lớn, bảo khắp tam thiên đại thiên thế giới biết, trong âm vang to lớn ấy tự nhiên diễn ra bài kệ, nói rằng :

Các vị ở khắp nơi.

Rừng sâu giữa núi đá.

Giờ Tân tuế đã đến.

Tâm nguyện sẽ thành tựu.

Khi ấy các Tỳ kheo ở ngay tại chỗ hay du hành trong tam thiên đại thiên thế giới nghe bài kệ thông báo rồi, mọi người đều dùng thần túc hay tất cả phương tiện, biến hiện thân hình đi đến rừng cây Kỳ đà, vườn Cấp Cô Ðộc đến trước đức Phật xin thọ Tân tuế, rồi đồng đứng qua một bên. Ðức Phật nhóm họp các đệ tử. Họ đều từ các phương quốc độ khác nhau đi đến, đồng một lúc đều hội họp gồm có 80 vạn 4 ức vị muốn thọ tân tuế. Bấy giờ đức Thế tôn bảo tôn giả A nan : “Ngươi hãy đến đánh lên tiếng kiền chùy vì nay đã đúng lúc rồi”.

Tôn giả A nan vâng lời, từ tòa đứng dậy liền đánh kiền chùy, tiếng vang khắp cõi Phật, một nước lớn của một đức Phật cho đến địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh nghe tiếng kiền chùy đều nhờ oai thần của Phật nên tất cả bệnh khổ độc thảy đều tiêu trừ đều được an ổn. Bấy giờ đức Thế tôn dùng tiếng phạm âm thanh tịnh bảo các Tỳ kheo : “Các ngươi hãy đứng dậy rút thẻ kiểm tăng số (hành xá la trù), mọi người đều đối diện nhau để sám hối những điều sai lầm, tự trách mình, cùng nhau xin lỗi các điều sai lầm, các phi pháp đã vi phạm, mọi người đều phải nhẫn nhục, hòa đồng, thanh tịnh thân, miệng, tâm để cho không còn chút ô uế nào sót lại. Khi ấy các Tỳ kheo liền vâng theo lời Phật dạy, họ đều từ tòa đứng dậy, đến trước đức Thế tôn, mỗi người mỗi người đều cùng nhau tạ lỗi, sám hối những điều sai lầm xong, trở về ngồi lại chỗ cũ.

Khi đức Phật đã thấy chúng tăng đều trở về ngồi lại chỗ cũ xong, ngài dũ lòng thương xót, nhân đó từ tòa đứng dậy, tự chắp tay hướng về các Tỳ kheo nói rằng : “Hỡi các chúng Tỳ kheo ! Hãy giữ tâm hòa thuận cùng hướng vào nhau để sám hối những lỗi lầm. Vì sao vậy ? Thân, khẩu, ý của ta thản hoặc có những lỗi lầm sai trái ; đức Như lai, bậc Vô thượng tôn, chí chơn không có sự sai lầm, các nghiệp khuyết lậu, tâm không phóng dật, không mất trí tuệ, không có tham luyến, không phá giới cấm, đối với trong hàng các Thanh vănDuyên giác, tôn đức vượt hơn chư thiên, nhân dân của thế gian hết sức lâu dài trong ba cõi nhưng không ai sánh bằng.

Lại nữa này các Tỳ kheo, nếu các giòng họ xuất gia học đạo, tu theo pháp của Sa môn, tâm tánh mỗi người khác nhau, chí nguyện không đồng, đối với sự nghiệp thành Phật ở đây phải nên thi hành, phải vâng theo sự dạy dỗ không được vi phạm. Vì sao vậy ? Nếu có Tỳ kheo ở nơi Thánh chúng kiến lập tân tuế, thân hạnh mỗi người mỗi khác, tâm niệm không đồng mà ôm lòng nịnh hót cho rằng Tỳ kheo kia không thọ nhận sự chơn chánh, không nên thọ cụ giới. Vì sao vậy ? Vì thân, khẩu, ý thanh tịnh mới là thiện chơn chánh, thọ đầy đủ giới của Phật, ôm lòng cung kính, thuận theo bậc thượng, bậc trung, bậc hạ, không có ngạo mạn, phóng túng, hỗ thẹn, khiêm cung mới phù hợp với giới pháp. Vì sao vậy ? Hành giả như vậy không có sự oán thù, ghen ghét, không có kết hận, quán xem pháp cổ kim không có rối loạn. Kiến lập Tân tuế cũng không có tâm sân hận, tự đại. Vì sao vậy ? Vì giữ giới cấm thanh tịnh. Nếu tạo lập Tân tuế, kiến lập giới tối đại mà không thanh tịnh thì không phải là đệ tử của đức Phật.

Giống như người chết, thi hài để nơi đất, vứt bỏ trong gò mã, dù cho thiên thượng nhơn gian chư thiên, nhân dân đều đem thuốc hay, thần chú, thuật giỏi, thương nhớ muốn làm cho kẻ ấy sống lại cũng không thể cứu sống được. Cũng vậy Tỳ kheo hủy phạm giới cấm, chánh thức được nhập chúng, dù có nhiều tân tuế cũng không thể tự cứu được để kiến lập tân tuế. Vì sao vậy ? Vì người ấy đã phá hủy giới thì lẽ tự nhiên phải bị quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh khổ sở độc hại, cay đắng vô lượng. Vậy các người cần phải cẩn thận.

Ðức Phật thuyết pháp xong từ tòa đứng dậy, bước ra khỏi nệm cỏ. Ngay lúc đó tam thiên đại thiên thế giớisáu thứ chấn động. Ðàn không hầu, kỷ nhạc không gãy mà tự nhiên phát ra âm thanh, ở giữa hư không mưa các loại danh hương, rải đủ thứ hoa. Khi đức Phật nói giới pháp phẩm này để bảo chúng Tỳ kheo, bấy giờ các Tỳ kheo đều ở ngay nơi chỗ ngồi của mình nhờ lời dạy chơn chánh oai thần của Phật thánh công huân sáng rạng, phổ chiếu cùng khắp, mỗi người đều tự đứng lên, trong tâm không còn ưa thích dục nữa, thường ngồi ở trên đỉnh núi, dưới gốc cây, lấy đó làm vui. Tất cả đều từ tòa ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức Phật, tự miệng họ nói lên rằng : “Tất cả các pháp đều từ Phật mà ra, Thánh là gốc của đạo, che chở tất cả bằng con mắt từ mẫn. Ngài là bậc tối tôn đặc thù, thánh đức vô thượng, siêu tuyệt không ai bằng, nguy nga vòi vọi, tuyên bố hóa đạo”.

Bấy giờ đức Như lai ở ngay chỗ tôn quý sám tạ Thánh chúng, xót thương chúng sanh rồi trở về nệm cỏ. Ðức Phật vừa ngồi lại xong, Thánh chúng cũng vậy, ai về chỗ nấy, lại ngồi xuống đúng như pháp. Bấy giờ đức Thế tôn thấy đã đến giờ thọ tuế, xót thương các hội chúng, ngài ở trước các Tỳ kheo, ba lần tác bạch đã xong, công việc hoàn tất, năm Tỳ kheo từ tòa ngồi đứng dậy kiến lập tân tuế. Vừa lập tân tuế, một vạn Tỳ kheo được thành Ðạo tích, tám ngàn Tỳ kheo được quả A la hớn. Chư thiên trên hư không, tám vạn bốn ngàn vị đều được khai hóa, đều được pháp đạo ý, vô thượng chánh chơn, giảng thuyết kinh pháp không sao kể xiết, các loại chúng sanh kiến lập ba thừa. Nay Phật thương xót hạ cố tấm lòng, ngồi trong đại chúng, độ thoát ách nguy, mười phương đều mong nhờ cứu vớt.

Khi ấy Long vương A Ðầu Hòa Nan, tất cả đều rời chỗ ở của mình, cầm nước hoa Chiên đàn, tạp hương đi đến chỗ đức Phật, đến chỗ thọ Tân tuế, quy y đức Phật cùng với Thánh chúng, cúi đầu lạy dưới chân, dùng tạp hương chiên đàn cúng dường đức PhậtTỳ kheo tăng, rồi dùng bài kệ này để tán tụng rằng :

Dù ở trên đỉnh núi. Ngồi dưới bóng cây râm.

Du hành trên biển cả. Ôm lòng tham, sân hận.

Ðến rồi lập Tân tuế. Hằng ức chúng sanh họp.

Cúng dường phụng thờ Phật. Ðược thành cửa cam lồ.

Bấy giờ Hải Long Vương đem viên ngọc Xích chơn châu hóa làm giao lộ, gác tràng thượng diệu, dài rộng 400 dặm do vàng, tía, lưu ly hiệp lại tạo thành, dùng tay nắm giữ, đi trên không trung. Ra khỏi Long cung, từ gác giao lộ lấy nước ao có tám mùi vị, dùng dòng nước sạch rưới lên mặt đất để cúng dường đức Như lai và chúng Tỳ kheo, dùng gác giao lộ dâng lên đại thánhTỳ kheo tăng, lấy ngọc anh lạc rải lên Phật và thánh chúng liền nói bài kệ :

Thanh tịnh như hư không. Ðồng nhất tự nhiên vô.

Cấm giới rất thanh tịnh. Hơn ngọc diệu minh châu.

Hằng hà sa số chúng. Ngồi ở nơi đại hội.

Ðều cúng dường an trụ. Và các chúng Thanh văn.

Bấy giờ mười phương các vị Bồ tát, Thiên long, Thần vương đều từ mười phương đi đến để hội họp, hóa ra nhiều vật cúng dường kỳ lạ để cúng dường đức Thế tôn và chúng Tỳ kheo, đảnh lễ quy y, thưa hỏi và thọ trì kinh điển. Ai nấy đều như vậy, hoàn toàn không có gì khác, đều đến đảnh lễ, đều phát đạo ý vô thượng chánh chơn. Khi ấy thiên nhơn mỗi mỗi đều phát tâm cúng dường đức Thế tôn và các Thánh chúng, dùng bài kệ để tán thán :

Trong tâm đã thanh tịnh.

Ðệ nhất không nghĩ bàn.

Thánh chúng tối tôn trưởng.

Ngồi ở trong hội này.

Vứt bỏ tất cả tưởng.

Khéo trừ các cấu uế.

Ngày nay phụng cúng dường.

Với hết lòng cung kính.

Khai hóa cứu các nạn.

Tất cả các trần lao.

Cấm giới đã thanh tịnh.

Như ngọc bảo minh nguyệt.

Tâm thường tư duy chánh.

Ðoạn các kết sân nhuế.

Hôm nay bậc Ly cấu.

Hiệp hội lập Tân tuế.

Dạy dỗ tâm khó dạy.

Tuân hành như Thái sơn.

Thường hành pháp vô ngại.

Phật an lập Tân tuế

Khi ấy Thiên nhân nói kệ này xong, đảnh lễ dưới chân đức Phật, bỗng nhiên biến mất, đều trở về cung điện của mình, thảy đều vui mừng, tự vui với pháp. Bấy giờ đức Thế tôn hiện ra bóng mát lớn, các báu giao lộ để che thánh chúng, bèn nói bài kệ này :

Giới hạnh thật thanh tịnh.

Việc làm khó theo kịp.

Hôm nay thí điều vui.

Che khắp lập Tân tuế.

Dâng lên An trụ tử.

Hộ giới thật thanh tịnh.

Như chim thích lông mình.

Oai Phật hộ Tân tuế.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo : “Nay Phật Thế tôn tuy Tân tuế một năm một hội tu hành pháp tắc thanh tịnh hộ đạo, giữ gìn thân khẩu ý ba sự không ô uế, phụng hành thập thiện, tứ đẳng, lục độ, trừ bỏ sáu tình, ba độc, năm cái, mười hai sợi dây lôi kéo, thanh tịnh như mặt trời chiếu soi thiên hạ, ánh sáng chiếu diệu, bóng tối tiêu trừ, nhập vào ánh sáng đạo vô thượng chơn chánh, tất cả hòa đồng, khổ vui không có hai mới đúng với đạo pháp”. Lúc đó đức Phật bèn nói bài tụng :

Chư Phật ra đời vui.

Nói kinh pháp cũng vui.

Thánh chúng hòa đồng vui. 

Thường hòa được an lạc.

Ðức Phật nói như vậy, các chúng Tỳ kheo chư thiên, rồng, quỷ thần, A tu luân, nhơn dân của thế gian nghe đức Phật dạy không ai không hoan hỷ, đảnh lễ rồi lui ra.

Thế tôn du hànhXá vệ.

Vì các đệ tử nói như vậy.

Tất cả đều ở hội Kỳ thọ.

Nay Bát hòa lan theo thường lệ.

Xá lợi phất chắp tay bạch Phật

Mong Thế tôn nói Bát hòa lan.

Khi ba cõi tôn xưng nói ra.

Làm pháp gì Tỳ kheo tự tịnh ?

Xá lợi phất vì ta trải cỏ.

Dưới gốc cây ra sức trừ ma.

 Nếu ai trải cỏ cũng như vậy.

Ðời nay kẻ ấy phải thanh tịnh.

Như bậc hiền giả ngồi.

Ðó là vô sở úy.

Ngồi an lạc không dục.

An ổn trong ba cõi.

Kiết hạ nay đã xong.

Ðó là đệ tử Phật.

Hãy tự mình phân biệt.

Thương xót khắp thế gian.

Là tháng lớn trong năm.

Là giác đệ nhất trí.

Hãy tự bỏ thân hành.

Kiến đoạn bao nhiêu khổ.

Ngài nói các tội não.

Biết rõ vô số khổ.

Ðó là đắc Ðạo tích.

Nay vì Bát hòa lan.

Mỏng tham dục sân nhuế.

Cũng hay trừ gốc ái.

Có thể đoạn sanh tử.

Cũng hết căn não tưởng.

Tự đến được thiên thượng.

Cũng lại sanh nhơn gian.

Ðó là được hai đạo.

Nay vì Bát hòa lan.

Ðã được sanh lên trời.

Thì không còn đọa lạc.

Khi đã sanh lên trời.

Ðã diệt hết các ái.

Pháp đệ nhất thế gian.

Tôn giả đã đạt được.

Ðó là được hai đạo.

Nay nhờ Bát hòa lan.

Tất cả các ác não. 

Ðã hết, được giải thoát.

Ðã được bốn cam lồ.

Ðó là vô sở úy.

Ðã diệt hết bóng tối.

Hướng về tất cả khổ.

Ðó là tám tối đạo.

Nay là Bát hòa lan.

Ðã xong một tháng liền được một trí, đã đến tháng thứ hai liền được hai trí, một lúc ba tháng liền được ba trí, vui thích ba trí, nay là Bát hòa lan. Vị ấy đã trị lành bốn ghẻ lỡ, không còn lưu dư, đã vượt qua bờ bên kia, đã được an ổn. Ðã qua bốn tháng rồi, bậc chẳng còn gì nữa, đã thành công đức nay là Bát hòa lan, có thể hàng phục Long đầu, Nan đầu, Hòa la, chấn động núi Tu di và nước biển, cho đến cõi trời cũng đều bị chấn động. Bọn của ông Mục kiền liên nay là Bát hòa lan.

Tối hiền giả tự giác.

Nên các xứ đã hết.

Là phước giúp thế gian.

Phật tự nói lời này.

Thường độc hành dưới cây.

thí dụ số đông.

Phật Bích chi tối thượng.

Nay là Bát hòa lan.

Ba chỗ không đắm trước.

Chúng vì ý thanh tịnh.

Ba thân đã ổn định.

Vốn đã lìa kiêu mạn.

Tại ba cõi vô dục.

Ðược tịnh ý bất động.

An ổn như Tu di.

Nay là Bát hòa lan.

Ðã hành bốn đều chánh.

Bốn đạo đã được định.

Phật bảohiền giả.

Tăng phước đức mọi người.

Chỗ cúng thí tối an.

Trọn không thể bại hoại.

Phật được các trí huệ.

Nay là Bát hòa lan.

Trì giới đã đầy đủ. 

Bất động trước các lực.

Pháp thực y bị phục.

Thường ưa ở trong núi.

Ðó là hạnh kiên cố.

Ðầy đủ không sứt mẻ.

Chỗ hành giả thanh tịnh.

Nay là Bát hòa lan.

Trì giới trừ các ác.

Chúng chắp tay thọ pháp.

Ðược tất cả hướng về.

Các ma đều hàng phục.

Chư thiên cùng thiện nhân

Khen ngợi giới cụ túc.

Không còn thấy các ma.

Nay là Bát hòa lan. 

PHẬT NÓI KINH TÂN TUẾ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22298)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15034)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18962)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14453)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18634)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13590)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13556)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13265)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13669)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13941)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13254)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16166)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11086)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16459)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11909)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17602)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12881)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13717)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12866)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16395)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13134)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12094)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12776)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12919)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12794)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14126)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16482)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12381)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14391)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11334)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11038)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13196)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13897)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13167)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13007)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13512)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12740)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10236)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10238)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13707)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16272)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11969)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12981)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11662)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12682)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10800)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10946)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11901)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12770)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11069)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12622)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11330)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant