Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tân Tuế

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11838)
Kinh Tân Tuế


KINH TÂN TUẾ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0062 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông Tấn, Sa môn Trúc Ðàm Vô Lan.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy một thời đức Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô độc, nước Xá vệ, cùng đông đủ tám vạn bốn ngàn vị đại chúng Tỳ kheo, tôn giả Xá lợi phất, tôn giả Mục kiền liên ... trước sau đoanh vây nghe đức Phật thuyết kinh. Ðức Phật ở giữa đại hội giống như núi Tu di là vua các hòn núi, một mình cao lớn vòi vọi như trăng rằm sáng chói giữa sao trời, hào quang uy nghiêm to lớn như vàng tía sáng mặt đất, tất cả đều có sắc vàng, trác tuyệt, đặc thù, vòi vọi, không có gì có thể so sánh được. Bấy giờ đức Thế tôn cùng đông đủ chúng Tỳ kheo, vô lượng thanh tịnh, như bầu trời không có mây. Sau ba tháng kiết hạ an cư đã xong, đã đến ngày thọ tân tuế. Các chúng Tỳ kheo im lặng chờ đợi, một lòng tư duy về đạo, an định, không có tư tưởng gì khác.

Bấy giờ hiền giả A nan liền từ tòa đứng dậy, trịch áo vai bên mặt, gối phải sát đất, quỳ xuống chắp tay đến trước đảnh lễ dưới chân đức Phật, nói bài kệ tán thán :

Ðức Thế tôn đến đây.

Với mục đích tế độ.

Ba tháng ở chỗ này.

Kỳ thọ Cô độc viên.

Sở nguyện đã đầy đủ.

Nay chính đã đúng lúc.

Ðạo sư Vô đẳng luân.

Xin tuyên bố Tân tuế.

Khi ấy đức Thế tôn nghe tôn giả A nan nói bài kệ tụng tán thán đức Phật là bậc đạt đến chơn tịch, xong ngồi qua một bên, đức Phật bảo hiền giả Mục kiền liên : “Ngươi hãy đi khắp tam thiên đại thiên thế giới, những nơi hang núi thâm u vắng vẻ, những thạch thất trên đỉnh núi cao, khắp bảo cho các chúng Tỳ kheo, các vị mới nhập đạo hay hàng cựu học, các vị chưa ngộ đạo, đều mời tụ hội tại rừng cây Kỳ Ðà này. Vì sao vậy ? Vì đức Như lai đã đến lúc ngài muốn truyền thọ Tân tuế”.

Khi ấy tôn giả Ðại Mục kiền liên lên trên hư không, vâng theo thánh chỉ của đức Phật phát ra âm thanh to lớn, bảo khắp tam thiên đại thiên thế giới biết, trong âm vang to lớn ấy tự nhiên diễn ra bài kệ, nói rằng :

Các vị ở khắp nơi.

Rừng sâu giữa núi đá.

Giờ Tân tuế đã đến.

Tâm nguyện sẽ thành tựu.

Khi ấy các Tỳ kheo ở ngay tại chỗ hay du hành trong tam thiên đại thiên thế giới nghe bài kệ thông báo rồi, mọi người đều dùng thần túc hay tất cả phương tiện, biến hiện thân hình đi đến rừng cây Kỳ đà, vườn Cấp Cô Ðộc đến trước đức Phật xin thọ Tân tuế, rồi đồng đứng qua một bên. Ðức Phật nhóm họp các đệ tử. Họ đều từ các phương quốc độ khác nhau đi đến, đồng một lúc đều hội họp gồm có 80 vạn 4 ức vị muốn thọ tân tuế. Bấy giờ đức Thế tôn bảo tôn giả A nan : “Ngươi hãy đến đánh lên tiếng kiền chùy vì nay đã đúng lúc rồi”.

Tôn giả A nan vâng lời, từ tòa đứng dậy liền đánh kiền chùy, tiếng vang khắp cõi Phật, một nước lớn của một đức Phật cho đến địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh nghe tiếng kiền chùy đều nhờ oai thần của Phật nên tất cả bệnh khổ độc thảy đều tiêu trừ đều được an ổn. Bấy giờ đức Thế tôn dùng tiếng phạm âm thanh tịnh bảo các Tỳ kheo : “Các ngươi hãy đứng dậy rút thẻ kiểm tăng số (hành xá la trù), mọi người đều đối diện nhau để sám hối những điều sai lầm, tự trách mình, cùng nhau xin lỗi các điều sai lầm, các phi pháp đã vi phạm, mọi người đều phải nhẫn nhục, hòa đồng, thanh tịnh thân, miệng, tâm để cho không còn chút ô uế nào sót lại. Khi ấy các Tỳ kheo liền vâng theo lời Phật dạy, họ đều từ tòa đứng dậy, đến trước đức Thế tôn, mỗi người mỗi người đều cùng nhau tạ lỗi, sám hối những điều sai lầm xong, trở về ngồi lại chỗ cũ.

Khi đức Phật đã thấy chúng tăng đều trở về ngồi lại chỗ cũ xong, ngài dũ lòng thương xót, nhân đó từ tòa đứng dậy, tự chắp tay hướng về các Tỳ kheo nói rằng : “Hỡi các chúng Tỳ kheo ! Hãy giữ tâm hòa thuận cùng hướng vào nhau để sám hối những lỗi lầm. Vì sao vậy ? Thân, khẩu, ý của ta thản hoặc có những lỗi lầm sai trái ; đức Như lai, bậc Vô thượng tôn, chí chơn không có sự sai lầm, các nghiệp khuyết lậu, tâm không phóng dật, không mất trí tuệ, không có tham luyến, không phá giới cấm, đối với trong hàng các Thanh vănDuyên giác, tôn đức vượt hơn chư thiên, nhân dân của thế gian hết sức lâu dài trong ba cõi nhưng không ai sánh bằng.

Lại nữa này các Tỳ kheo, nếu các giòng họ xuất gia học đạo, tu theo pháp của Sa môn, tâm tánh mỗi người khác nhau, chí nguyện không đồng, đối với sự nghiệp thành Phật ở đây phải nên thi hành, phải vâng theo sự dạy dỗ không được vi phạm. Vì sao vậy ? Nếu có Tỳ kheo ở nơi Thánh chúng kiến lập tân tuế, thân hạnh mỗi người mỗi khác, tâm niệm không đồng mà ôm lòng nịnh hót cho rằng Tỳ kheo kia không thọ nhận sự chơn chánh, không nên thọ cụ giới. Vì sao vậy ? Vì thân, khẩu, ý thanh tịnh mới là thiện chơn chánh, thọ đầy đủ giới của Phật, ôm lòng cung kính, thuận theo bậc thượng, bậc trung, bậc hạ, không có ngạo mạn, phóng túng, hỗ thẹn, khiêm cung mới phù hợp với giới pháp. Vì sao vậy ? Hành giả như vậy không có sự oán thù, ghen ghét, không có kết hận, quán xem pháp cổ kim không có rối loạn. Kiến lập Tân tuế cũng không có tâm sân hận, tự đại. Vì sao vậy ? Vì giữ giới cấm thanh tịnh. Nếu tạo lập Tân tuế, kiến lập giới tối đại mà không thanh tịnh thì không phải là đệ tử của đức Phật.

Giống như người chết, thi hài để nơi đất, vứt bỏ trong gò mã, dù cho thiên thượng nhơn gian chư thiên, nhân dân đều đem thuốc hay, thần chú, thuật giỏi, thương nhớ muốn làm cho kẻ ấy sống lại cũng không thể cứu sống được. Cũng vậy Tỳ kheo hủy phạm giới cấm, chánh thức được nhập chúng, dù có nhiều tân tuế cũng không thể tự cứu được để kiến lập tân tuế. Vì sao vậy ? Vì người ấy đã phá hủy giới thì lẽ tự nhiên phải bị quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh khổ sở độc hại, cay đắng vô lượng. Vậy các người cần phải cẩn thận.

Ðức Phật thuyết pháp xong từ tòa đứng dậy, bước ra khỏi nệm cỏ. Ngay lúc đó tam thiên đại thiên thế giớisáu thứ chấn động. Ðàn không hầu, kỷ nhạc không gãy mà tự nhiên phát ra âm thanh, ở giữa hư không mưa các loại danh hương, rải đủ thứ hoa. Khi đức Phật nói giới pháp phẩm này để bảo chúng Tỳ kheo, bấy giờ các Tỳ kheo đều ở ngay nơi chỗ ngồi của mình nhờ lời dạy chơn chánh oai thần của Phật thánh công huân sáng rạng, phổ chiếu cùng khắp, mỗi người đều tự đứng lên, trong tâm không còn ưa thích dục nữa, thường ngồi ở trên đỉnh núi, dưới gốc cây, lấy đó làm vui. Tất cả đều từ tòa ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức Phật, tự miệng họ nói lên rằng : “Tất cả các pháp đều từ Phật mà ra, Thánh là gốc của đạo, che chở tất cả bằng con mắt từ mẫn. Ngài là bậc tối tôn đặc thù, thánh đức vô thượng, siêu tuyệt không ai bằng, nguy nga vòi vọi, tuyên bố hóa đạo”.

Bấy giờ đức Như lai ở ngay chỗ tôn quý sám tạ Thánh chúng, xót thương chúng sanh rồi trở về nệm cỏ. Ðức Phật vừa ngồi lại xong, Thánh chúng cũng vậy, ai về chỗ nấy, lại ngồi xuống đúng như pháp. Bấy giờ đức Thế tôn thấy đã đến giờ thọ tuế, xót thương các hội chúng, ngài ở trước các Tỳ kheo, ba lần tác bạch đã xong, công việc hoàn tất, năm Tỳ kheo từ tòa ngồi đứng dậy kiến lập tân tuế. Vừa lập tân tuế, một vạn Tỳ kheo được thành Ðạo tích, tám ngàn Tỳ kheo được quả A la hớn. Chư thiên trên hư không, tám vạn bốn ngàn vị đều được khai hóa, đều được pháp đạo ý, vô thượng chánh chơn, giảng thuyết kinh pháp không sao kể xiết, các loại chúng sanh kiến lập ba thừa. Nay Phật thương xót hạ cố tấm lòng, ngồi trong đại chúng, độ thoát ách nguy, mười phương đều mong nhờ cứu vớt.

Khi ấy Long vương A Ðầu Hòa Nan, tất cả đều rời chỗ ở của mình, cầm nước hoa Chiên đàn, tạp hương đi đến chỗ đức Phật, đến chỗ thọ Tân tuế, quy y đức Phật cùng với Thánh chúng, cúi đầu lạy dưới chân, dùng tạp hương chiên đàn cúng dường đức PhậtTỳ kheo tăng, rồi dùng bài kệ này để tán tụng rằng :

Dù ở trên đỉnh núi. Ngồi dưới bóng cây râm.

Du hành trên biển cả. Ôm lòng tham, sân hận.

Ðến rồi lập Tân tuế. Hằng ức chúng sanh họp.

Cúng dường phụng thờ Phật. Ðược thành cửa cam lồ.

Bấy giờ Hải Long Vương đem viên ngọc Xích chơn châu hóa làm giao lộ, gác tràng thượng diệu, dài rộng 400 dặm do vàng, tía, lưu ly hiệp lại tạo thành, dùng tay nắm giữ, đi trên không trung. Ra khỏi Long cung, từ gác giao lộ lấy nước ao có tám mùi vị, dùng dòng nước sạch rưới lên mặt đất để cúng dường đức Như lai và chúng Tỳ kheo, dùng gác giao lộ dâng lên đại thánhTỳ kheo tăng, lấy ngọc anh lạc rải lên Phật và thánh chúng liền nói bài kệ :

Thanh tịnh như hư không. Ðồng nhất tự nhiên vô.

Cấm giới rất thanh tịnh. Hơn ngọc diệu minh châu.

Hằng hà sa số chúng. Ngồi ở nơi đại hội.

Ðều cúng dường an trụ. Và các chúng Thanh văn.

Bấy giờ mười phương các vị Bồ tát, Thiên long, Thần vương đều từ mười phương đi đến để hội họp, hóa ra nhiều vật cúng dường kỳ lạ để cúng dường đức Thế tôn và chúng Tỳ kheo, đảnh lễ quy y, thưa hỏi và thọ trì kinh điển. Ai nấy đều như vậy, hoàn toàn không có gì khác, đều đến đảnh lễ, đều phát đạo ý vô thượng chánh chơn. Khi ấy thiên nhơn mỗi mỗi đều phát tâm cúng dường đức Thế tôn và các Thánh chúng, dùng bài kệ để tán thán :

Trong tâm đã thanh tịnh.

Ðệ nhất không nghĩ bàn.

Thánh chúng tối tôn trưởng.

Ngồi ở trong hội này.

Vứt bỏ tất cả tưởng.

Khéo trừ các cấu uế.

Ngày nay phụng cúng dường.

Với hết lòng cung kính.

Khai hóa cứu các nạn.

Tất cả các trần lao.

Cấm giới đã thanh tịnh.

Như ngọc bảo minh nguyệt.

Tâm thường tư duy chánh.

Ðoạn các kết sân nhuế.

Hôm nay bậc Ly cấu.

Hiệp hội lập Tân tuế.

Dạy dỗ tâm khó dạy.

Tuân hành như Thái sơn.

Thường hành pháp vô ngại.

Phật an lập Tân tuế

Khi ấy Thiên nhân nói kệ này xong, đảnh lễ dưới chân đức Phật, bỗng nhiên biến mất, đều trở về cung điện của mình, thảy đều vui mừng, tự vui với pháp. Bấy giờ đức Thế tôn hiện ra bóng mát lớn, các báu giao lộ để che thánh chúng, bèn nói bài kệ này :

Giới hạnh thật thanh tịnh.

Việc làm khó theo kịp.

Hôm nay thí điều vui.

Che khắp lập Tân tuế.

Dâng lên An trụ tử.

Hộ giới thật thanh tịnh.

Như chim thích lông mình.

Oai Phật hộ Tân tuế.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo : “Nay Phật Thế tôn tuy Tân tuế một năm một hội tu hành pháp tắc thanh tịnh hộ đạo, giữ gìn thân khẩu ý ba sự không ô uế, phụng hành thập thiện, tứ đẳng, lục độ, trừ bỏ sáu tình, ba độc, năm cái, mười hai sợi dây lôi kéo, thanh tịnh như mặt trời chiếu soi thiên hạ, ánh sáng chiếu diệu, bóng tối tiêu trừ, nhập vào ánh sáng đạo vô thượng chơn chánh, tất cả hòa đồng, khổ vui không có hai mới đúng với đạo pháp”. Lúc đó đức Phật bèn nói bài tụng :

Chư Phật ra đời vui.

Nói kinh pháp cũng vui.

Thánh chúng hòa đồng vui. 

Thường hòa được an lạc.

Ðức Phật nói như vậy, các chúng Tỳ kheo chư thiên, rồng, quỷ thần, A tu luân, nhơn dân của thế gian nghe đức Phật dạy không ai không hoan hỷ, đảnh lễ rồi lui ra.

Thế tôn du hànhXá vệ.

Vì các đệ tử nói như vậy.

Tất cả đều ở hội Kỳ thọ.

Nay Bát hòa lan theo thường lệ.

Xá lợi phất chắp tay bạch Phật

Mong Thế tôn nói Bát hòa lan.

Khi ba cõi tôn xưng nói ra.

Làm pháp gì Tỳ kheo tự tịnh ?

Xá lợi phất vì ta trải cỏ.

Dưới gốc cây ra sức trừ ma.

 Nếu ai trải cỏ cũng như vậy.

Ðời nay kẻ ấy phải thanh tịnh.

Như bậc hiền giả ngồi.

Ðó là vô sở úy.

Ngồi an lạc không dục.

An ổn trong ba cõi.

Kiết hạ nay đã xong.

Ðó là đệ tử Phật.

Hãy tự mình phân biệt.

Thương xót khắp thế gian.

Là tháng lớn trong năm.

Là giác đệ nhất trí.

Hãy tự bỏ thân hành.

Kiến đoạn bao nhiêu khổ.

Ngài nói các tội não.

Biết rõ vô số khổ.

Ðó là đắc Ðạo tích.

Nay vì Bát hòa lan.

Mỏng tham dục sân nhuế.

Cũng hay trừ gốc ái.

Có thể đoạn sanh tử.

Cũng hết căn não tưởng.

Tự đến được thiên thượng.

Cũng lại sanh nhơn gian.

Ðó là được hai đạo.

Nay vì Bát hòa lan.

Ðã được sanh lên trời.

Thì không còn đọa lạc.

Khi đã sanh lên trời.

Ðã diệt hết các ái.

Pháp đệ nhất thế gian.

Tôn giả đã đạt được.

Ðó là được hai đạo.

Nay nhờ Bát hòa lan.

Tất cả các ác não. 

Ðã hết, được giải thoát.

Ðã được bốn cam lồ.

Ðó là vô sở úy.

Ðã diệt hết bóng tối.

Hướng về tất cả khổ.

Ðó là tám tối đạo.

Nay là Bát hòa lan.

Ðã xong một tháng liền được một trí, đã đến tháng thứ hai liền được hai trí, một lúc ba tháng liền được ba trí, vui thích ba trí, nay là Bát hòa lan. Vị ấy đã trị lành bốn ghẻ lỡ, không còn lưu dư, đã vượt qua bờ bên kia, đã được an ổn. Ðã qua bốn tháng rồi, bậc chẳng còn gì nữa, đã thành công đức nay là Bát hòa lan, có thể hàng phục Long đầu, Nan đầu, Hòa la, chấn động núi Tu di và nước biển, cho đến cõi trời cũng đều bị chấn động. Bọn của ông Mục kiền liên nay là Bát hòa lan.

Tối hiền giả tự giác.

Nên các xứ đã hết.

Là phước giúp thế gian.

Phật tự nói lời này.

Thường độc hành dưới cây.

thí dụ số đông.

Phật Bích chi tối thượng.

Nay là Bát hòa lan.

Ba chỗ không đắm trước.

Chúng vì ý thanh tịnh.

Ba thân đã ổn định.

Vốn đã lìa kiêu mạn.

Tại ba cõi vô dục.

Ðược tịnh ý bất động.

An ổn như Tu di.

Nay là Bát hòa lan.

Ðã hành bốn đều chánh.

Bốn đạo đã được định.

Phật bảohiền giả.

Tăng phước đức mọi người.

Chỗ cúng thí tối an.

Trọn không thể bại hoại.

Phật được các trí huệ.

Nay là Bát hòa lan.

Trì giới đã đầy đủ. 

Bất động trước các lực.

Pháp thực y bị phục.

Thường ưa ở trong núi.

Ðó là hạnh kiên cố.

Ðầy đủ không sứt mẻ.

Chỗ hành giả thanh tịnh.

Nay là Bát hòa lan.

Trì giới trừ các ác.

Chúng chắp tay thọ pháp.

Ðược tất cả hướng về.

Các ma đều hàng phục.

Chư thiên cùng thiện nhân

Khen ngợi giới cụ túc.

Không còn thấy các ma.

Nay là Bát hòa lan. 

PHẬT NÓI KINH TÂN TUẾ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15662)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10973)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53435)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12869)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16387)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15257)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19047)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19811)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15416)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15235)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20179)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23718)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15347)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12946)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19843)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13163)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28924)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11601)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18181)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16522)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13122)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12688)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13119)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12878)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12763)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13431)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11585)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14130)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17642)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22263)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13341)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14191)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105542)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14498)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38291)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15413)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34535)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15939)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11263)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15561)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13901)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12736)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13565)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12392)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19285)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26879)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13047)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13367)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21471)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17855)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21751)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14080)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15960)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15979)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18965)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24588)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant