Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Giải Hạ

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12027)
Kinh Giải Hạ


KINH GIẢI HẠ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0063 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống, Tây thiên, Tam tạng, Minh giáo Ðại sư Pháp Hiền.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy, một thời đức Phật ở tại tịnh xá Trúc Lâm, ở Ca lan đà, thành Vương xá, cùng 500 bí sô chúng đều là bậc A la hán, các lậu đã hết, việc cần làm đã làm xong, đoạn trừ các gánh nặng, đã được tự lợi, sạch hết hữu kiết, tâm khéo giải thoát, chỉ có một bí sô vẫn còn ở địa vị hữu học. Ðức Thế tôn đã vì vị ấy thọ ký làm cho thấy pháp, đắc pháp, sẽ chứng quả viên mãn.

Bấy giờ đức Thế tôn an cư đã xong, khi sắp giải hạ vào ngày rằm, ngài cùng chúng bí sô trải tòa mà ngồi. Khi hội chúng đã ngồi xong, đức Phật bảo chúng bí sô rằng: “Nay ta đã được phạm hạnh tịch tịnh, đây là thân cuối cùng, dùng vô thượng lạc đoạn trừ các lậu. Ðệ tử của ta biết rõ các pháp, đều đã thông đạt, cho nên nay ta tuyên nói pháp giải hạ. Này các chúng bí sô, các nghiệp về thân, khẩu, ý của trong mùa hạ này, các người có nhẫn được chăng?”

Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất nghe đức Phật nói xong, từ tòa ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên hữu, quỳ gối mặt sát đất, chắp tay hướng đức Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế tôn, như lời Phật dạy, nay con đã được phạm hạnh thanh tịnh, cho đến thân, khẩu, ý nghiệp đều có thể nhẫn được. Chúng con biết thân, khẩu, ý nghiệp của đức Phật không có lỗi lầm. Các bí sô chúng con nay không có phiền trách gì đức Thế tôn cả. Vì sao vậy? Vì Phật Thế tôn của con với người khó điều phục thì ngài có thể điều phục được, với người không chỉ tức thì ngài khéo chỉ tức, với người không an ổn, ngài khéo an ổn, kẻ chưa tịch tịnh thì ngài làm cho được tịch tịnh. Như lai khéo rõ chánh đạo, khéo nói chánh đạo, khai thị chánh đạo, cho đến chúng con thích Bồ đề của Thanh văn, Phật khéo vì chúng con dạy, khiến cho các Thanh văn như lý tu hành mà chứng được thánh quả. Cho nên chúng con đối với thân, khẩu, ý pháp của Phật Thế tôn không có gì phiền trách cả”.

Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất thưa đức Phật: “Bạch Thế tôn, nay con đối với đức Phật, nếu thân, khẩu, ý nghiệp của con có bất thiện gì, cúi mong đức Phật chỉ dạy”. Ðức Phật bảo: “Này Xá lợi phất! Nay thân, khẩu, ý nghiệp của gnươi, ta không có gì phiền trách cả. Vì sao vậy? Này Xá lợi phất! Ngươi có đầy đủ giới, đa văn, thiểu dục, tri túc, đoạn trừ các phiền não, phát đại tinh tấn, an trụ chánh niệm, đầy đủ các dẫn huệ, văn huệ, tiệp huệ, lợi huệ, xuất ly huệ, liễu đạt huệ, quãng đại thanh tịnh huệ, thậm thâm huệ, vô đẳng huệ, cụ đại huệ bảo, làm cho kẻ chưa thấy đạo thì được thấy, kẻ chưa điều phục thì làm cho được điều phục, kẻ chưa được nghe pháp thì thuyết pháp cho nghe, kẻ có nhiều sân hận thì khiến cho hoan hỷ, hay thuyết pháp cho bốn chúng mà không mệt mõi. Thí như con của Kim luân vương thì được thọ pháp quán đảnh kế thừa ngôi vua y pháp mà cai trị. Tôn giả Xá Lợi Phất cũng lại như vậy, là con của ta, thọ pháp quán đảnh kế thừa ngôi pháp vương. Tôn giả Xá Lợi Phất như ta sẽ chuyển bánh xe pháp vô thượng, như ta hết các lậu, chứng đắc giải thoát. Cho nên tôn giả Xá Lợi Phất đối với ba nghiệp của tôn giả, nay ta công nhận là không có lỗi”.

Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất nghe đức Phật đã chấp nhận xong, tôn giả cúi đầu lạy tạ, lại bạch đức Phật: “Bạch Thế tôn, như đức Phật đã vì con mà chấp nhận ba nghiệp của con rồi, vậy nay đối với năm trăm bí sô trong hội này, về thân, khẩu, ý nghiệp nếu có bị bất thiện chăng, cúi mong đức Thế tôn cũng chấp nhận như thế”. Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất: “Ba nghiệp của năm trăm bí sô ta cũng chấp nhận. Vì sao vậy? Vì năm trăm vị bí sô này đều là bậc A la hán, các lậu đã hết, việc cần làm đã làm xong, đã bỏ các gánh nặng xuống, đã được tự lợi, đã hết các kiết sử, tâm khéo giải thoát. Trong đó chỉ có một vị bí sô hiện đang ở địa vị hữu học, nhưng vị bí sô này ta đã thọ ký rồi, đã thấy pháp, đắc pháp, sẽ chứng quả viên mãn. Này Xá lợi phất! Cho nên ta đối với ba nghiệp của năm trăm bí sô này đều có thể chấp nhận cả”.

Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất lại bạch đức Phật: “Bạch Thế tôn, ba nghiệp của con và năm trăm vị bí sô đã được đức Phật chấp nhận rồi. Nay con có điều nghi nên lại thưa hỏi, cúi mong Phật Thế tôn phân biệt cho con. Bạch Thế tôn, trong năm trăm vị bí sô này có bao nhiêu vị được pháp Tam minh? Lại có bao nhiêu vị bí sô được Câu giải thoát? Lại có bao nhiêu vị bí sô được huệ giải thoát?”. Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất: “Trong năm trăm vị bí sô này có 90 bí sô được pháp Tam minh, 90 vị bí sô được Câu giải thoát. Ngoài ra các bí sô còn lại đều được Huệ giải thoát. Này Xá lợi phất! Như vậy các bí sô này đã hết các phiền não, đều an trú chơn thật”.

Khi ấy ở trong hội chúng có một tôn giả tên là Phạ Nghi Xá suy nghĩ như vầy: “Nay ta nên đối trước đức Phật và chúng bí sô dùng kệ (Dà Ðà) giải hạ để tán thán”. Bấy giờ tôn giả Phạ Nghi Xá nghĩ như vậy xong, từ tòa đứng dậy, trạch vai áo bên phải quỳ gối mặt xuống đất, chấp tay cung kính nói bài kệ rằng:

 Ngày mười lăm giải hạ.

Hành luật nghi thanh tịnh.

 Chúng bí sô năm trăm.

Ðoạn hết các phiền não.

 Ðã sạch hết lậu pháp.

Ðược chứng quả vị Thánh.

 Trong tịnh, ngoài điều phục.

Giải thoát nên lìa hữu.

 Tận cùng mé sanh tử.

Việc cần làm đã xong.

 Ðã đoạn hết không còn.

Vô minhngã mạn.

 Phật của con tối thượng.

Ðoạn các pháp tà niệm.

 Và đoạn pháp hữu lậu.

Khéo trừ bệnh khổ ái.

 Ái diệt không còn sanh.

Ðại sư tử lìa thủ.

 Hết các sự sợ hãi.

Phật Thế tôn của con.

 Thí như vua Kim luân.

Ngàn người con doanh vây.

 Khéo trị bốn thiên hạ.

Ðiều phục cả bốn biển.

 Lại như người chiến thắng.

điều ngự tối thượng.

 Thanh văn được ba minh.

Lìa sự chết cũng vậy.

 Phật tử cũng như thế.

Chứng diệt không còn sanh.

 Nay con lạy Pháp vương.

Ðại Nhật Tôn vô thượng.

 

Bấy giờ tôn giả Phạ Nghi Xá nói bài kệ Dà Ðà xong về ngồi lại chỗ cũ. Khi ấy tôn giả Xá Lợi Phất cùng các bí sô nghe đức Phật tuyên nói pháp giải hạ, tâm sanh hoan lạc, dũng bước, vui mừng tán thán, tín thọ phụng hành

PHẬT NÓI KINH GIẢI HẠ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14959)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13397)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15068)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16383)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13161)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12539)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13409)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13363)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12715)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 11911)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12585)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11425)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11715)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11110)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13238)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13118)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11525)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12107)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12308)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11886)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12681)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12318)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12134)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12180)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11933)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11890)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11146)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11315)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12323)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12417)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11955)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12909)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11967)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12554)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12959)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13869)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12680)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14821)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11846)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12114)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12824)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12713)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14690)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12688)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15327)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12493)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13156)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14163)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15472)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13686)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13068)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13503)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12395)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12014)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12841)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12911)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13106)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21260)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143398)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15595)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant