Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Giải Hạ

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12033)
Kinh Giải Hạ


KINH GIẢI HẠ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0063 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống, Tây thiên, Tam tạng, Minh giáo Ðại sư Pháp Hiền.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy, một thời đức Phật ở tại tịnh xá Trúc Lâm, ở Ca lan đà, thành Vương xá, cùng 500 bí sô chúng đều là bậc A la hán, các lậu đã hết, việc cần làm đã làm xong, đoạn trừ các gánh nặng, đã được tự lợi, sạch hết hữu kiết, tâm khéo giải thoát, chỉ có một bí sô vẫn còn ở địa vị hữu học. Ðức Thế tôn đã vì vị ấy thọ ký làm cho thấy pháp, đắc pháp, sẽ chứng quả viên mãn.

Bấy giờ đức Thế tôn an cư đã xong, khi sắp giải hạ vào ngày rằm, ngài cùng chúng bí sô trải tòa mà ngồi. Khi hội chúng đã ngồi xong, đức Phật bảo chúng bí sô rằng: “Nay ta đã được phạm hạnh tịch tịnh, đây là thân cuối cùng, dùng vô thượng lạc đoạn trừ các lậu. Ðệ tử của ta biết rõ các pháp, đều đã thông đạt, cho nên nay ta tuyên nói pháp giải hạ. Này các chúng bí sô, các nghiệp về thân, khẩu, ý của trong mùa hạ này, các người có nhẫn được chăng?”

Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất nghe đức Phật nói xong, từ tòa ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên hữu, quỳ gối mặt sát đất, chắp tay hướng đức Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế tôn, như lời Phật dạy, nay con đã được phạm hạnh thanh tịnh, cho đến thân, khẩu, ý nghiệp đều có thể nhẫn được. Chúng con biết thân, khẩu, ý nghiệp của đức Phật không có lỗi lầm. Các bí sô chúng con nay không có phiền trách gì đức Thế tôn cả. Vì sao vậy? Vì Phật Thế tôn của con với người khó điều phục thì ngài có thể điều phục được, với người không chỉ tức thì ngài khéo chỉ tức, với người không an ổn, ngài khéo an ổn, kẻ chưa tịch tịnh thì ngài làm cho được tịch tịnh. Như lai khéo rõ chánh đạo, khéo nói chánh đạo, khai thị chánh đạo, cho đến chúng con thích Bồ đề của Thanh văn, Phật khéo vì chúng con dạy, khiến cho các Thanh văn như lý tu hành mà chứng được thánh quả. Cho nên chúng con đối với thân, khẩu, ý pháp của Phật Thế tôn không có gì phiền trách cả”.

Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất thưa đức Phật: “Bạch Thế tôn, nay con đối với đức Phật, nếu thân, khẩu, ý nghiệp của con có bất thiện gì, cúi mong đức Phật chỉ dạy”. Ðức Phật bảo: “Này Xá lợi phất! Nay thân, khẩu, ý nghiệp của gnươi, ta không có gì phiền trách cả. Vì sao vậy? Này Xá lợi phất! Ngươi có đầy đủ giới, đa văn, thiểu dục, tri túc, đoạn trừ các phiền não, phát đại tinh tấn, an trụ chánh niệm, đầy đủ các dẫn huệ, văn huệ, tiệp huệ, lợi huệ, xuất ly huệ, liễu đạt huệ, quãng đại thanh tịnh huệ, thậm thâm huệ, vô đẳng huệ, cụ đại huệ bảo, làm cho kẻ chưa thấy đạo thì được thấy, kẻ chưa điều phục thì làm cho được điều phục, kẻ chưa được nghe pháp thì thuyết pháp cho nghe, kẻ có nhiều sân hận thì khiến cho hoan hỷ, hay thuyết pháp cho bốn chúng mà không mệt mõi. Thí như con của Kim luân vương thì được thọ pháp quán đảnh kế thừa ngôi vua y pháp mà cai trị. Tôn giả Xá Lợi Phất cũng lại như vậy, là con của ta, thọ pháp quán đảnh kế thừa ngôi pháp vương. Tôn giả Xá Lợi Phất như ta sẽ chuyển bánh xe pháp vô thượng, như ta hết các lậu, chứng đắc giải thoát. Cho nên tôn giả Xá Lợi Phất đối với ba nghiệp của tôn giả, nay ta công nhận là không có lỗi”.

Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất nghe đức Phật đã chấp nhận xong, tôn giả cúi đầu lạy tạ, lại bạch đức Phật: “Bạch Thế tôn, như đức Phật đã vì con mà chấp nhận ba nghiệp của con rồi, vậy nay đối với năm trăm bí sô trong hội này, về thân, khẩu, ý nghiệp nếu có bị bất thiện chăng, cúi mong đức Thế tôn cũng chấp nhận như thế”. Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất: “Ba nghiệp của năm trăm bí sô ta cũng chấp nhận. Vì sao vậy? Vì năm trăm vị bí sô này đều là bậc A la hán, các lậu đã hết, việc cần làm đã làm xong, đã bỏ các gánh nặng xuống, đã được tự lợi, đã hết các kiết sử, tâm khéo giải thoát. Trong đó chỉ có một vị bí sô hiện đang ở địa vị hữu học, nhưng vị bí sô này ta đã thọ ký rồi, đã thấy pháp, đắc pháp, sẽ chứng quả viên mãn. Này Xá lợi phất! Cho nên ta đối với ba nghiệp của năm trăm bí sô này đều có thể chấp nhận cả”.

Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất lại bạch đức Phật: “Bạch Thế tôn, ba nghiệp của con và năm trăm vị bí sô đã được đức Phật chấp nhận rồi. Nay con có điều nghi nên lại thưa hỏi, cúi mong Phật Thế tôn phân biệt cho con. Bạch Thế tôn, trong năm trăm vị bí sô này có bao nhiêu vị được pháp Tam minh? Lại có bao nhiêu vị bí sô được Câu giải thoát? Lại có bao nhiêu vị bí sô được huệ giải thoát?”. Ðức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất: “Trong năm trăm vị bí sô này có 90 bí sô được pháp Tam minh, 90 vị bí sô được Câu giải thoát. Ngoài ra các bí sô còn lại đều được Huệ giải thoát. Này Xá lợi phất! Như vậy các bí sô này đã hết các phiền não, đều an trú chơn thật”.

Khi ấy ở trong hội chúng có một tôn giả tên là Phạ Nghi Xá suy nghĩ như vầy: “Nay ta nên đối trước đức Phật và chúng bí sô dùng kệ (Dà Ðà) giải hạ để tán thán”. Bấy giờ tôn giả Phạ Nghi Xá nghĩ như vậy xong, từ tòa đứng dậy, trạch vai áo bên phải quỳ gối mặt xuống đất, chấp tay cung kính nói bài kệ rằng:

 Ngày mười lăm giải hạ.

Hành luật nghi thanh tịnh.

 Chúng bí sô năm trăm.

Ðoạn hết các phiền não.

 Ðã sạch hết lậu pháp.

Ðược chứng quả vị Thánh.

 Trong tịnh, ngoài điều phục.

Giải thoát nên lìa hữu.

 Tận cùng mé sanh tử.

Việc cần làm đã xong.

 Ðã đoạn hết không còn.

Vô minhngã mạn.

 Phật của con tối thượng.

Ðoạn các pháp tà niệm.

 Và đoạn pháp hữu lậu.

Khéo trừ bệnh khổ ái.

 Ái diệt không còn sanh.

Ðại sư tử lìa thủ.

 Hết các sự sợ hãi.

Phật Thế tôn của con.

 Thí như vua Kim luân.

Ngàn người con doanh vây.

 Khéo trị bốn thiên hạ.

Ðiều phục cả bốn biển.

 Lại như người chiến thắng.

điều ngự tối thượng.

 Thanh văn được ba minh.

Lìa sự chết cũng vậy.

 Phật tử cũng như thế.

Chứng diệt không còn sanh.

 Nay con lạy Pháp vương.

Ðại Nhật Tôn vô thượng.

 

Bấy giờ tôn giả Phạ Nghi Xá nói bài kệ Dà Ðà xong về ngồi lại chỗ cũ. Khi ấy tôn giả Xá Lợi Phất cùng các bí sô nghe đức Phật tuyên nói pháp giải hạ, tâm sanh hoan lạc, dũng bước, vui mừng tán thán, tín thọ phụng hành

PHẬT NÓI KINH GIẢI HẠ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12487)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14090)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10838)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11166)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11974)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13608)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33627)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11313)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12887)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13027)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11598)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17858)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11399)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11811)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11464)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18949)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12516)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11301)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13121)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15730)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11791)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11676)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12733)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12612)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13926)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12905)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13264)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12737)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11704)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11698)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12305)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12369)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19806)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11935)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11972)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16866)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12656)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15049)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16087)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12857)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12204)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11900)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11913)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13134)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16487)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13216)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12464)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11791)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11237)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11069)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10947)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10016)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11724)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant