Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tỳ Kheo Chiêm Bà

15 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13374)
Kinh Tỳ Kheo Chiêm Bà


KINH TỲ KHEO CHIÊM BÀ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0064 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Sa môn Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 


Nghe như vầy, một thời Bà Già Bà ở tại Chiêm bà, bên bờ hồ Hằng Già. Bấy giờ đức Thế tôn vào ngày thứ mười lăm trong tháng là ngày thuyết giới. Ngài ngồi trước Tỳ kheo tăng. Sau khi ngồi xong, ngài quan sát tâm niệm của các Tỳ kheo. Quán sát tâm niệm của các Tỳ kheo rồi, ngài ngồi im lặng cho đến hết buổi đầu đêm.

Bấy giờ có một thầy Tỳ kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai, chấp tay hướng về đức Phật và thưa: “Bạch Thế tôn, đã hết buổi đầu đêm, đức Thế tônTỳ kheo tăng ngồi đây đã lâu, ngưỡng mong đức Thế tôn thuyết giới”. Khi ấy đức Thế tôn vẫn ngồi im lặng. Như vậy cho đến nữa đêm, đức Thế tôn vẫn ngồi im lặng. Thấy vậy Tỳ kheo ấy lại chắp tay hướng về đức Phật bạch rằng: “Bạch Thế tôn, buổi đầu đêm đã qua, buổi nữa đêm sắp hết, đức Thế tônTỳ kheo tăng ngồi đây đã lâu, ngưỡng mong đức Thế tôn thuyết giới”. Khi ấy đức Thế tôn cũng ngồi im lặng. Bấy giờ là cuối nữa đêm, đức Thế tôn vẫn ngồi im lặng. Tỳ kheo ấy lần thứ ba bạch Thế tôn, chắp tay hướng về đức Phật thưa: “Bạch Thế tôn, đầu đêm đã qua, nữa đêm đã hết và cuối đêm sắp chấm dứt, mặt trời sắp mọc, không bao lâu nữa mặt trời sẽ mọc, đức Thế tôn và chúng Tỳ kheo ngồi đây đã lâu, cúi mong đức Thế tôn thuyết giới”.

Bấy giờ đức Thế tôn bảo Tỳ kheo ấy: “Ở trong chúng Tỳ kheo của ta có người bất tịnh”. Khi ấy tôn giả Ðại Mục Kiền Liên cũng có ở trong hội chúng này. Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên liền suy nghĩ: “Ðức Thế tôn định chỉ thầy Tỳ kheo nào mà nói rằng ở trong chúng đây có người bất tịnh. Ta hãy nên nhập tam muội chánh thọ Như kỳ tượng và bằng tam muội ý mà quán sát tâm niệm các Tỳ kheo”. Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Kiền Liên liền nhập tam muội chánh thọ Như kỳ tượng, dùng tam muội ý mà quán sát tâm niệm các Tỳ kheo. Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên liền biết thầy Tỳ kheođức Thế tôn vừa nói. Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Kiền Liên liền từ tam muội ra, đi đến chỗ Tỳ kheo kia, đến xong nắm tay kéo vị Tỳ kheo ấy ra ngoài cửa và nói: “Này người ngu si, hãy đi ra. Ngươi không được ở trong này, không có Tỳ kheo sống chung với ngươi đâu, nay ngươi không phải là Tỳ kheo nữa”.

Khi ấy tôn giả Ðại Mục Kiền Liên nắm tay kéo Tỳ kheo kia ra ngoài cửa rồi đóng cửa lại, đóng cửa xong đi đến chỗ Thế tôn, sau khi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn xong, ngồi qua một bên, tôn giả Ðại Mục Kiền Liên ngồi qua một bên xong, bạch đức Thế tôn: “Bạch Thế tôn, ngài nói trong chúng có một thầy Tỳ kheo bất tịnh. Con đã nắm tay kéo vị ấy ra ngoài cửa rồi. Con nói: này người ngu si kia, hãy đi ra. Ngươi không nên ở trong này, không có Tỳ kheo sống chung với ngươi đâu. Nay Tỳ kheo ấy đã ra ngoài rồi. Bạch Thế tôn, đầu đêm đã qua, nữa đêm cũng hết và cuối đêm sắp tàn. Bây giờ trời sắp sáng, mặt trời sắp mọc, không bao lâu nữa mặt trời sẽ mọc, đức Thế tônTỳ kheo tăng ngồi ở đây đã lâu rồi, ngưỡng mong đức Thế tôn thuyết giới”.

Ðức Phật dạy: “Này Mục Kiền Liên, kẻ ngu si kia sẽ mắc đại tội vì đã xúc nhiễu đức Thế tôn và chúng Tỳ kheo. Này Mục Kiền Liên, nếu ở trong chúng có Tỳ kheo bất tịnhNhư lai thuyết giới thì đầu của kẻ ngu ấy sẽ bị vỡ làm bảy phần. Cho nên này Mục Kiền Liên, kể từ ngày hôm nay trở về sau, các thầy hãy cùng nhau thuyết giới. Như lai sẽ không còn thuyết giới nữa. Vì sao vậy? Này Mục Kiền Liên, hoặc có một người ngu si, trải qua như vầy, quán biết khi duỗi, khi co, khi nắm, khi thả, khoác y Tăng già lê, ôm bát, nên đối với vị phạm hạnh khác thì tự xưng là phạm hạnh. Này Mục Kiền Liên, hoặc có bậc phạm hạnh biết được người ấy nên nghĩ như vầy: “Ðây là sự dối trá đối với Sa môn, đây là sự thô ác đối với Sa môn, đây là gai nhọn đối với Sa môn”. Bảo rằng đó không phải là Sa môn. Các vị ấy đã biết như vậy rồi liền bỏ kẻ ấy ra ngoài. Vì sao vậy? Vì sợ làm hủy hoại các Tỳ kheo thanh tịnh vậy.

Này Mục Kiền Liên, giống như trong lúa dé hoặc lúa tẻ đang tươi tốt, nếu trong ruộng ấy có loại cỏ ác sanh ra, cỏ này có gốc, lóng, lá, hạt đều giống hệt như lúa tẻ. Khi nó chưa có hạt thì hãy nhổ bỏ nó đi. Nó là loại cỏ làm hư hạt lúa dé, là gai nhọn đối với lúa dé, là thô ác đối với lúa dé. Kẻ nông dân bằng mọi cách nhổ nó bỏ ra ngoài. Vì sao vậy? Vì sợ nó làm hư lúa dé đang tươi tốt vậy. Cũng vậy, này Mục Kiền Liên, nếu có một người ngu nghĩ như vậy, quán sát rõ ràng khi co, khi duỗi, khi nắm, khi thả, lúc đắp y Tăng già lê, ôm bát mà đối với các phạm hạnh khác tự xưng là phạm hạnh, hoặc có bậc phạm hạnh biết được kẻ ấy hoặc nghĩ rằng đó là sự phá hoại của Sa môn, đó là gai chích của Sa môn, đó là sự thô ác đối với Sa môn. Vị Sa môn này thì không nói như vậy. Vị ấy biết xong liền đuổi kẻ ấy ra ngoài. Vì sao vậy? Vì sợ làm hư hoại các Tỳ kheo thanh tịnh khác.

Này Mục Kiền Liên, ví như người nông dân cư sĩ kia vào tháng mùa đông đem lúa ra dên, nếu là hạt lúa chắc thì nằm ở lại, ngoài ra các thứ hoặc cỏ, hoặc lá theo gió bay đi. Người ấy dên lúa hoàn toàn nhờ sức gió thổi đi. Người điền chủ cư sĩ ấy liền cầm chổi quét sạch sẽ. Vì sao vậy? Vì người ấy không muốn chúng làm hư hoại các hạt lúa chắc thật khác. Cũng vậy, này Mục Kiền Liên, nếu có người ngu si biết quán sát lúc co, lúc duỗi, khi nắm, khi mở, lúa khoác Tăng già lê, ôm bát giống như các vị phạm hạnh khác, rồi tự nói ta là vị phạm hạnh. Này Mục Kiền Liên, hoặc có bậc phạm hạnh khác biết được liền nghĩ đây là sự phá hoại của Sa môn, đây là gai nhọn của Sa môn, đây là sự thô ác của Sa môn. Vị kia biết rồi bèn đuổi kẻ ấy ra ngoài chúng. Vì sao vậy? Vì sợ làm hư hoại các Tỳ kheo thanh tịnh khác vậy.

Này Mục Kiền Liên, ví như điền chủ cư sĩ kia, muốn có nước, muốn cho nước chảy đến, người ấy cầm búa bén vào rừng, kẻ ấy cầm búa gõ vào các cây, nếu cây có lõi cứng thì tiếng đặc, còn cây có tiếng lớn là rỗng ruột. Sau khi biết rõ, người ấy liền chặt cây kia tận gốc rồi làm cho ruột cây rỗng suốt để làm máng dẫn nước. Cũng vậy này Mục Kiền Liên, hoặc có người ngu si biết quán sát rành rẽ khi co, khi duỗi, khi nắm, khi thả, khi khoác y Tăng già lê, ôm bát, đối với vị phạm hạnh khác tự xưng là phạm hạnh. Này Mục Kiền Liên, nếu có bậc phạm hạnh chân chánh biết được kẻ ấy liền nghĩ đây là sự phá hoại của Sa môn, sự thô ác của Sa môn, là gai nhọn của Sa môn, chẳng phải là Sa môn. Vị ấy biết rồi liền đuổi kẻ kia ra ngoài. Vì sao vậy? Vì sợ làm tổn hoại đến Tỳ kheo thanh tịnh vậy. Cho nên nói kệ:

Cùng ở phải nên biết.

Ác cầu và sân hận.

Sân hận, không xả tham.

Không bỏ huyễn, nịnh hót.

Với người dối nói tu.

Tự bảo là Sa môn.

Tự làm các hạnh ác.

Ác kiến chẳng an lạc.

Ðều không cho cùng hội.

Bỏ đi đừng ở chung.

Biết thời đồng tịnh hạnh.

Phân biệt ai đã nói.

Không tịnh bảo Sa môn.

Bỏ kẻ ác hạnh đi.

Ðừng ở chung kẻ ác.

Ngày nào cũng như vậy.

Sống hòa nhịp với nhau.

Sẽ tận cùng sự khổ.

Phật nói như vậy, các Tỳ kheo đã nghe đức Thế tôn dạy xong, hoan hỷ vui mừng

 

PHẬT NÓI KINH TỲ KHEO CHIÊM BÀ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14768)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11834)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12767)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12070)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15300)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11090)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10543)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12480)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16431)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14318)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11793)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14814)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12034)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16861)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11593)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52158)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15472)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13972)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13186)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12791)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13226)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12457)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12658)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54215)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14434)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57989)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14509)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20149)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13795)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15410)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17499)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13315)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11936)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13494)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14674)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12496)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12066)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13293)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13669)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13325)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25607)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12182)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14561)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11866)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42075)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28353)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38815)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14726)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12706)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant