Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tệ Ma Thí Mục Liên

15 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13182)
Kinh Tệ Ma Thí Mục Liên


PHẬT NÓI KINH TỆ MA THÍ MỤC LIÊN


 Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0067 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Ngô Nguyệt Chi, Ưu bà tắc Chi Khiêm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy: Một thời đức Phật đức Phật giáo hóa trong vườn nai, làng xóm Khủng Cụ, núi Diệu Hoa, nước Phàn Kỳ.

Bấy giờ hiền giả Ðại Mục Kiền Liên đang kinh hành trong đêm tối. Trong lúc tôn giả đang kinh hành trên khoảng đất trống, bấy giờ Tệ Ma đi đến chỗ Ngài, tự hóa hình nhỏ xíu, chui vào trong bụng của tôn giả Mục Liên. Lúc đó hiền giả Ðại Mục Kiền Liên nghĩ như vầy: “Trong bụng của ta tại sao lại có tiếng ầm ầm như sấm, giống như người đang đói mà gánh phải vật nặng. Vậy ta nên vào trong thất nhập chánh thọ tam muội quán sát để tìm căn nguyên”. Khi ấy tôn giả Mục Liên liền vào trong thất nhập tam muội để quán thân, tôn giả liền thấy Tệ Ma hóa hình nhỏ xíu chui vào bụng mình. Tôn giả liền nói rằng: “Này Tệ Ma, hãy đi ra đừng có quấy nhiễu đức Như laiđệ tử của Ngài, để rồi mãi mãi gánh lấy khổ đau, bất an, đọa vào ác xứ”.

Khi ấy trong tâm ma nghĩ rằng: “Nay Sa môn này chưa thấy ta, cũng chưa biết ta, thế mà dối nói rằng này Tệ Ma hãy đi ra, hãy đi ra, chớ có quấy nhiễu đức Như laiđệ tử của Ngài, sẽ mãi mãi bị khổ thống, bất an. Ngay như thầy của ông là Thế tôn Ðại thánh còn không thể biết được ta, huống chi là đệ tử của ông ta mà biết được ta sao?”.

Tôn giả Mục Liên lại nói với Tệ Ma: “Ta còn biết trong ý của ngươi nghĩ rằng Ðại sư của ông ta là bậc Ðại thánh còn không thể biết được ta huống chi là đệ tử mà biết được ta”.

Lúc ấy Tệ Ma liền sợ hãi nghĩ rằng: “Nay Sa môn này đã biết ta rồi”. Nó liền hóa hình nhỏ xíu nhảy ra đứng ở phía trước. Tôn giả Mục Liên bảo với ma: “Vào thời quá khứ lâu xa về trước, lúc đức Phật Câu Lâu Tần xuất thế, khi đó ta đã từng làm ma tên là Sân hận. Ta có một người em gái tên là Quỷ Hắc. Lúc đó mày là con trai của nó. Như vậy nên biết rằng mày là con của em gái ta”.

Bấy giờ đức Phật xuất hiệnthế gian hiệu là Câu Lâu Tần Như lai, bậc chí chơn Ðẳng chánh giác. Ngài có hai người đệ tử, người thứ nhất tên là Hồng Âm, người thứ hai tên là Tri Tưởng, là bậc tối tôn, nhân hiền thứ nhất không ai bằng.

Sao gọi hiền giả ấy là Hồng Âm? Vì tôn giả đó lúc sống trên trời Phạm thiên, tiếng nói của Ngài to lớn vang rền cả ba ngàn đại thiên thế giới.

Còn sao gọi hiền giả kia là Tri Tưởng? Vì tôn giả ấy hoặc nương ở chỗ thanh vắng, ngồi dưới gốc cây nơi đồng trống hay ở trong núi, liền nhập tam muội chánh thọ Như kỳ tượng. Lúc ấy có những người đang chăn dê, chăn trâu, người lấy củi gánh cỏ, cày ruộng, người đi đường, họ vào trong núi thấy Ngài nhập định như vậy, đồng bảo nhau rằng: “Vị Sa môn này ngồi ở đây mà chết, bọn chúng ta hãy cùng nhau chất củi và cỏ lên để hỏa thiêu”. Như lời nói ấy, họ cùng nhau hỏa thiêu ngài (trà tỳ).

Tỳ kheo Tri Tưởng từ tam muội đứng dậy, đập phủi y phục, dũ các tro bụi. Khi sửa lại y phục xong, tôn giả ôm bát vào thành, quốc ấp làng xóm để khất thực. Những người chăn trâu dê, lấy củi gánh cỏ đều rất kinh ngạc, nói với nhau rằng: “Chúng ta ở chỗ đồng trống vắng vẻ, thấy Tỳ kheo này ngồi dưới gốc cây mà chẳng còn hơi thở cho là đã chết nên cùng nhau chất củi, cỏ khô để hỏa thiêu ngài. Ngày nay vì vậy gọi Tỳ kheo Tri Tưởng là Tưởng Thức.

Bấy giờ ma Sân hận tự suy nghĩ: “Bọn Sa môn này tự cho là trì giới, vắng lặng không nói mà hành tư duy. Giống như con chó, con mèo suy nghĩ cách để bắt con chuột nên nó im lặng bất động, chờ con chuột ra là bắt. Sự thiền tư của Sa môn này cũng lại như vậy.

Giống như con hạc già muốn bắt con cá, nó im lặng không có tiếng động, trầm tư, chờ con cá ra là nó nuốt. Các Sa môn này cũng lại như vậy, trầm tư suy nghĩ về mục đích mong cầu.

Giống như con lừa trong ngày mang nặng, cho đến buổi tối mệt mõi, đói khát, nó chìm đắm trong suy nghĩ muốn được ăn uống. Các Sa môn này cũng lại như vậy.

Bấy giờ trong tâm của suy nghĩ: “Ta nên giáo hóa các trưởng giả Phạm chí ở trong nước này, đánh đập chưởi mắng, làm cho y rách, bát bể, đầu vỡ, các đạo nhơn, Sa môn giữ giới này, làm cho họ sanh tâm sân hận. Ta nhờ đó tìm được phương tiện”. Như điều suy nghĩ, ma liền xúi dục các trưởng giả Phạm chí đánh đập mắng chửi, đập bể bát, đánh vỡ đầu, xé rách y phục các Sa môn trì giới phụng pháp này. Các Sa môn này giống như con mèo bắt chuột, như con hạc bắt cá, giống như chim Chí kiêu đứng ở giữa cây để bắt chuột, các Sa môn ngồi thiền cũng lại như vậy, in như con lừa đói mệt mỏi.

Khi ấy các Tỳ kheo đều bị hủy nhục, cúi đầu đi thẳng đến chỗ đức Phật Câu Lâu Tần. Bấy giờ đức Phậtbốn chúng Thiên long quỷ thần nói rộng về kinh đạo, thấy các Tỳ kheo bị hủy nhục đi đến, Ngài bảo các Tỳ kheo : “Nay ma Sân hận đã xúi dục các trưởng giả Phạm chí ở trong nước đánh đập, mắng nhiếc, đánh bể đầu, đập bể bát, xé rách y của các Sa môn trì giới phụng pháp, làm cho tâm họ tức giận, khởi ý sân hận. Nhờ nhân duyên đó ma tìm được phương tiện làm cho những vị ấy không thành đạo.

Này các đệ tử, đối với trường hợp như vậy hãy nên thực hành bốn thứ bình đẳng: từ, bi, hỷ và hộ; không ôm lòng oán kết; không tâm sân hận; rộng lớn không hạn lượng; an lạc vô biên biến khắp mười phương. Với tâm như vậy dù ma có tìm phương tiện để phá hoại cũng không thể được.

Các Tỳ kheo vâng lời đức Phật dạy, ở một cách an nhàn nơi đồng trống, một lòng thiền định tư duy, thực hành bốn đẳng tâm, ý không tăng giảm. Bấy giờ ma sân hận tuy mong muốn được những tiện lợi nơi các Sa môn trì giới phụng pháp nhưng vĩnh viễn không thể được. Khi ấy những trưởng giả Phạm chí nghe lời ma xúi dục, hủy nhục Sa môn trì giới phụng pháp, sau khi mạng chung đều bị đọa vào đường ác, bị tra tấn khổ não, ở trong địa ngục thọ lãnh hóa thân của mình. Giống như cây lớn, bóng nó tỏa ra một khoảng đất trống to lớn. Ở trên mặt đất địa ngục như sắt đốt cháy, lõa hình, lịm mình vào đó. Họ đều bảo nhau rằng: “Chúng ta bạc phước, thọ lấy tai ương tệ ác hung bạo này là do chúng ta hủy nhục, mắng nhiếc Sa môn phụng pháp trì giới, vì vậy chúng ta mới vào đây. Than ôi! Không thể thấy được Sa môn phụng pháp trì giới, muốn cầu phương tiện nhân duyên để tương kiến, vì đã tự tạo điều này phải tự thọ lấy tai ương. Vì nghe theo ma xúi dục nên mới không thể che chở thân mình”.

Bấy giờ trong tâm của ma Sân hận nghĩ rằng: “Ta nhờ phương tiện này để tìm được sự tiện lợi nơi các Sa môn trì giới, nhưng hoàn toàn không thể được. Bây giờ ta phải biến hình xúi dục các trưởng giả Phạm chí rằng các ngươi hãy cúng dường phụng sự Sa môn trì giới, dùng áo quần, cơm ăn, giường nằm, thuốc men, khiến cho vị ấy tham sự cúng dường, nhờ nhân duyên đó ta mới có cơ hội”. Liền như mưu kế ấy, ma liền xúi các trưởng giả Phạm chí trong nước đến giữa ngã tư đường, nếu ở ngã tư đường thấy các Sa môn đạo nhân trì giới hãy trải tóc trên đất để các vị ấy đi qua và tán thán rằng: “Các ngài là những vị Sa môn trì giới siêng năng tu thân, khó thấy khó gặp, xin các ngài hãy đạp lên tóc của tôi để tôi mãi mãi được vô lượng phước”.

Hoặc có trưởng giả Phạm chí mang y phục đến chỗ các Sa môn trì giới đảnh lễ, quỳ xuống thưa rằng: “Xin các ngài thương xót chúng con nhận lấy y phục này”.

Hoặc họ mang đầy thức ăn đi đến tinh xá hoặc họ đến ngã tư, đầu các ngõ tắt trong làng dâng lên để cúng dường các Sa môn trì giới, thưa rằng: “Các ngài thật khó gặp khó thấy, xin các ngài hãy nhận vật cúng dường này để chúng con mãi mãi được phước vô lượng”.

Hoặc họ bồng các ngài, dìu các ngài, cõng các ngài vào nhà họ, mời ngồi trên giường đẹp, rồi họ mang ra các thứ phạn thực, y phục, cà sa, vàng bạc bảy báu để ở phía trước, quỳ mà thưa rằng: “Ngài là vị Sa môn trì giới khó gặp khó thấy, xin ngài hãy thọ nhận những vật cúng dường này. Xin các ngài vì lòng thương xót tự ý thọ dụng để con mãi mãi được vô lượng phước”.

Lúc đó, đức Phật Câu Lâu Tần vì bốn chúng chư thiên, long, thần thấy các đạo sĩ Sa môn trì giới được các trưởng giả Phạm chí đến gặp, cúng dường cung kính vô lượng. Ngài bảo các Tỳ kheo: “Nay ma sân hận xúi dục các trưởng giả Phạm chí cúng dường Sa môn đạo sĩ trì giới các thứ y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men, tùy ý muốn gì cũng cúng dường đủ. Nhờ nhân duyên đó ma có cơ hội phá hoại thiện tâm vị ấy, làm cho không thể đắc đạo. Các ngươi hãy nên ở nơi núi non, đồng trống vắng vẻ suy niệm về sự vô thường của vạn vật. Tuy được áo cơm nhưng đừng tham đắm, phải quán thấy nó là khổ, không, phi thân. Ma tuy tìm cơ hội để phá hoại nhưng rốt cuộc vẫn không được.

Các Tỳ kheo liền vâng theo lời dạy của đức Câu Lâu Tần Như lai chí chơn, đẳng chánh giác, tu hành như pháp cho nên dù ma có tìm cơ hội vẫn không có.

Vì ma xúi dục cho trưởng giả Phạm chí bảo họ cúng dường Sa môn trì giới, nhờ công đức ấy nên họ đều được sanh lên trời. Khi họ sanh lên trời xong, họ đều suy nghĩ rằng: “Chúng ta nhờ cúng dường, thờ pháp của Sa môn trì giới thanh tịnh nên tự mình được phước này, không phải nhờ người khác hay trời mà có được như vậy”.

Bấy giờ đức Phật Câu Lâu Tần Như lai, bậc chí chơn đẳng chánh giác, sau khi thọ thực, lúc mặt trời xế bóng cùng đệ tử lớn của ngài là tôn giả Hồng Âm du hành nơi quận huyện. Khi ấy Tệ Ma hóa thành một người dũng mảnh to lớn, tay cầm gậy lớn đứng bên đường, lén giơ gậy lớn đập vào đầu tôn giả Hồng Âm làm bể đầu, máu chảy lênh láng. Bấy giờ tôn giả vẫn đi sau đức Thế tôn như bóng theo hình im lặng không nói. Ðức Câu Lâu Tần Như lai là bậc thánh không ai bằng, quay đầu nhìn lại miệng nói lời trách rằng: “Này ma sân hận, không biết kiềm chế đã tạo ra sự đại ác này”.

Khi ấy ma Sân hận ngay thân của nó liền đọa vào địa ngục, rồi hết ngục này đi đến ngục khác. Giống như con nòng nọc, con cá ra khỏi nước lên đất liền, giống như lột da trâu sống, dần dà trong địa ngục chịu sự thống khổ không sao nói được.

Lúc ấy ma Ba tuần nó ở trong địa ngục dần dần chịu sự đau đớn kịch liệt, trải qua ức năm, gấp bội ngàn vạn năm ở trong địa ngục ấy. Thí như có người thân bị bệnh cuồng, chạy đến chỗ bất an. Khi ấy này ma Ba tuần nó bị đọa vào đại địa ngục bị thống khổ vô lượng. Lúc đó ngục tốt đến nói rằng: “Ngươi nên biết rằng nếu có một cái thẻ là một con chim bay lên, trải qua mười ngàn vạn năm như vậy. So sánh như vậy cũng khó biết được số năm Tệ Ma ở trong địa ngục. Sau cùng mới ra khỏi địa ngục lại gặp ách nạn hơn hai vạn năm. Khi ấy Tệ Ma mới hết sầu khổ.

Ðức Phật nói cho tôn giả Mục Liên bài kệ rằng:

Ma sân phải chịu tội.

Ðịa ngục ấy thế nào.

Lúc Phật Câu Lâu Tần.

Hóa độ chúng đệ tử.

tai hoạn áo não.

Bị khảo trị tất cả.

Lửa đốt tự thiêu thân.

Lửa thiêu mặt thiêu hình.

Ðịa ngục ấy như vậy.

Ma Sân hận ở đó.

Lúc Phật Câu Lâu Tần.

Hồng Âm đệ tử lớn.

Giả sử trước đức Phật.

Và xem các Tỳ kheo.

Do duyên đó thọ tội.

Tại vì làm nhiễu loạn.

Nếu ưa thích phê bình.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Phải thọ tai ương này.

Sanh nơi cực khổ hoạn.

Như người nhảy vực sâu.

Bỏ mất cung điện lớn.

Không ở với ngọc nữ.

Bỏ thú vui cõi trời.

Ai hiểu rõ điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Từ đó được thoát ra.

Nguy hại đọa khổ hoạn.

Ma nên biết thân ta.

Nương vào cửa giải thoát.

Không thiên xứ, thiên nhơn.

 Trời Danh Văn Ðao Lợi.

Nếu phân biệt như vậy.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tự thân phạm phi pháp.

Do đó vào đường dữ.

Ai dùng một ngón chân.

Rung động cung tối thắng.

Xử dụng thần túc lực.

Ðại cảm ứng Mục liên.

Ai hiểu rõ điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Nếu hưng lập tự thân.

Sao lại đọa ác thú.

Ví có trăm đoan chánh.

Ngọc nữ đẹp vi diệu.

Thấy Tỳ kheo thiền tư.

Liền không ở viên quán.

phân biệt như vậy.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tỳ kheo tự tạo nghiệp.

Hoặc bị đọa ác thú.

Giả sử cùng hòa đồng.

Ðến hỏi trời Ðế Thích.

Thiên đế hiểu hay không.

Nhơn đâu được giải thoát.

Lúc phát khởi thích ứng.

Tùy theo người hỏi đáp.

Nếu mình không đắm trước.

Sau đó được giải thoát.

Nếu hiểu rõ việc này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tùy mình tạo hành động.

Tự mình đến ác thú.

Hoặc đến cõi Phạm thiên.

Thưa hỏi vua Phạm thiên.

Do đâu đến chỗ này.

Ðược ở nơi Phạm thiên.

Phạm thiên liền đáp rằng.

Tùy hỏi mà trả lời.

Nay ta ở chỗ này.

Chưa từng sanh tà kiến.

Từ Phạm thiên khắp xem.

Ánh sáng bị thối chuyển.

Nay ta sẽ nói gì?

Thân ta trường thọ ư?

Nếu ai hiểu điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tự thân phạm phi pháp.

Tự nhiên khỏi khổ đau.

Như lửa không nghĩ rằng.

Ta sẽ đốt kẻ ngu.

Ngu tự sờ vào lửa.

Lại bị lửa thiêu thân.

Ba Tuần nên hiểu thế.

Dụng ý hướng Như lai.

Chỉ nguy hại thân mình.

Như lửa thiêu kẻ dại.

Người thích làm điều ác.

Thân họ mãi khổ đau.

Ðời sau không tự giác.

Ðừng nhiễu loạn Tỳ kheo.

Ma Sân chớ thử Phật.

Và nhiễu loạn đệ tử.

Mãi mãi không an ổn.

Phải sanh vào ác thú.

Bấy giờ ma hàng phục.

khủng bố Tỳ kheo.

Nghe như vậy ưu sầu.

Bỗng biến mất không hiện.

Ðức Phật nói như vậy, chư thiên, Long thần ai cũng đều hoan hỷ

 

PHẬT NÓI KINH TỆ MA THỬ TÔN GIẢ MỤC LIÊN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12496)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12346)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28805)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12051)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11444)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12376)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53045)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35489)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21395)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12405)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26045)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13317)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14381)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16086)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17585)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13129)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12532)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11609)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14509)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20480)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18990)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19564)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18653)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12183)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12313)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13860)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15514)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11404)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17193)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14979)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11709)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14556)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13169)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18342)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11939)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11500)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15851)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12881)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18907)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18422)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant