Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Lại Tra Hòa La

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13336)
Kinh Lại Tra Hòa La


PHẬT NÓI KINH LẠI TRA HÒA LA


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0068 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch:  Ðời Ngô, nước Nguyệt Chi, Ưu bà tắc Chi Khiêm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 


Nghe như vầy: Một thời đức Phật cùng với năm trăm Sa môn đồng du hóa đến nước Câu Lưu, đi đến nước Thâu La Âu Tra.

Bấy giờ các Bà la môn, đạo nhân, nhân dân trong nước (thôn) Thâu Lô Tra đều nghe tin đức Phật đang du hóa đến xứ này. Họ nghe công đức vi diệu của đức Phật không có tham, dâm, sân hận, ngu si. Ngài nói ra điều gì đều là trung chính, đã được Phật đạo, tự biết từ đâu sanh đến, dự biết việc quá khứ, vị lai, hiện tại. Mắt ngài có thể thấy suốt biết các loài sâu bọ, nhuyễn động và nhân dân thế gian lúc sanh lúc tử vào đường thiện ác, vị ấy có thể phi hành, có thể đi vào đất, lúc ra không cần khoảng cách, lúc vào không cần lổ hổng, việc làm biến hóa tự tại, biết nhân dân của thế gian và các loài sâu bọ nhuyễn động, khi chúng nghĩ điều gì ngài đều biết cả. Ðức Phật tự kiềm chế mắt, tự kiềm chế tai, tự kiềm chế mũi, tự kiềm chế miệng, tự kiềm chế thân và tự kiềm chế ý. Phàm chín mươi sáu thứ đạo của thế gian đều không thể theo kịp Phật đạo. Ðức Phật dạy nhân dân ở trên trời, dưới trời như cha mẹ dạy con, ngài có thể làm cho họ bỏ ác theo thiện. Ðức Phật là vị thầy của nhân dân ở trên trời và dưới trời. Ðức Phật đã dạy dỗ nhân dân của chư thiên làm cho họ đều được đạo Nê Hoàn, A la hán. Nhân dân cả nước đều nói:

–Ðức Phật là người tốt đẹp, ngài khéo nói giới kinh. Vậy chúng ta hãy cùng nhau đến chiêm ngưỡng con người đạo đức ấy.

Nhân dân trong nước ấy, hoặc năm mươi người làm một nhóm, hoặc một trăm người làm một nhóm, hoặc năm trăm người làm một nhóm, họ kết bạn cùng nhau đi đến chỗ đức Phật. Trong số đó có người đến quỳ trước đức Phật, có người đi nhiễu quanh đức Phật ba vòng, có người đem đầu mặt lạy dưới chân đức Phật, có người thì vòngtay, có người chỉ nói lên tên họ của mình. Tất cả mọi người đồng ngồi xuống.

Ðức Phật nói giới kinh cho mọi người nghe, mọi người đều chấp tay hướng về đức Phật. Trong số những người đang ngồi đó có một người con của trưởng giả tên là Lại Tra Hòa La cũng đang ngồi trong đó nghe đức Phật nói kinh, nhờ để tâm lắng nghe Lại Tra Hòa La tự suy nghĩ: “Như giới kinh của Phật dạy thì không nên ở tại gia, vì ở tại gia thì tự mình không thể thanh tịnh để học Phật đạo được”. Lại nghĩ: “Ðâu bằng ta cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, làm Sa môn”.

Dân chúng nước Thâu La Âu Tra nghe giới kinh xong thảy đều hoan hỷ, nhiễu quanh đức Phật ba vòng rồi ai về nhà nấy. Nhưng Lại Tra Hòa La mới về nữa đường thì liền quay trở lại chỗ đức Phật, đến phía trước đảnh lễ đức Phật, chắp tay quỳ xuống bạch đức Phật: “Con nghĩ giới kinh của Phật dạy không nên ở tại gia, vì ở tại gia thì tự mình không thể thanh tịnh để học kinh đạo của Phật được. Ý con muốn cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa làm Sa môn. Cúi mong đức Phật xót thương cho con được làm Sa môn”.

Ðức Phật hỏi: “Ngươi đã xin phép cha mẹ chưa?”. Lại Tra Hòa La thưa: “Con chưa xin phép cha mẹ”.

Ðức Phật dạy: “Ðối với Phật pháp, nếu cha mẹ không cho phép thì không thể làm Sa môn được. Ta cũng không thể truyền trao giới pháp cho ông được”.

Lại Tra Hòa La thưa: “Thưa vâng, cho phép con trở về xin cha mẹ, nếu cha mẹ cho phép làm Sa môn con sẽ trở lại”. Ðức Phật nói: “Lành thay! Hãy tự mình suy nghĩ kỹ”.

Lại Tra Hòa La liền đảnh lễ đức Phật về nhà đến trước cha mẹ thưa rằng: “Con được nghe giới kinh của Phật dạy là không nên ở nhà, vì ở nhà thì tự mình không thể thanh tịnh để học kinh đạo của Phật. Nay ý con muốn cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa làm Sa môn”.

Cha mẹ nghe con nói như vậy đều nhìn nhau khóc lóc nói rằng: “Vợ chồng ta hiếm con, phải cầu đảo khấn vái chư thiên, mặt trời, mặt trăng, cúi lạy bốn phương cầu xin được đứa con yêu quý để kế thừa hương khói sau này. Cha mẹ thường sợ con bỗng nhiên chết đi thì nhà này sẽ không ai nối dõi. Nhờ trời đã cho ta một người con trai, cả nhà đều hết sức yêu mến, lòng quyến luyến không sao kể xiết. Giả sử mà con có chết đi, cha mẹ còn không muốn rời bỏ con, cha mẹ cùng ngồi giũ xác con cho đến già huống chi nay con còn sống lại muốn bỏ chúng ta mà đi sao?”.

Khi ấy Lại Tra Hòa La thưa với cha mẹ : “Như nay cha mẹ không cho con đến chỗ đức Phật để làm Sa môn vậy kể từ nay trở đi con sẽ không ăn, không uống, không tắm rửa nữa. Nếu nay cha mẹ cho phép con làm Sa môn thì tốt, còn không cho thì con sẽ chết mà thôi”.

Nói xong liền nằm dài dưới đất trống, không ăn một ngày, hai ngày, ba bốn cho đến năm ngày. Tôn thân chín tộc nội ngoại của Lại Tra Hòa La nghe nói Lại Tra Hòa La theo cha mẹ để cầu xin được làm Sa môn nhưng cha mẹ không cho nên đã nằm dài dưới đất, không ăn không uống đã năm ngày rồi. Cửu tộc tôn thân nội ngoại đều đến chỗ Lại Tra Hòa La khuyên bảo đứng dậy tắm rữa ăn uống, nói với Lại Tra Hòa La rằng: “Lúc cha mẹ con chưa có con đã cầu đảo chư thiên, mặt trời, mặt trăng, cúi lạy bốn phương để cầu xin được một đứa con, tức là con vậy. Con phải cúng dường cha mẹ, làm người thừa kế gia đình sau này. Giả sử con có chết đi, cha mẹ vẫn thường muốn ngồi bên xác con cho đến già, huống chi nay con còn sống mà muốn xa lìa”.

Lại Tra Hòa La cũng không trả lời. Cửu tộc tôn thân đều lại đến trước cha mẹ ngài khóc lóc nói rằng: “Cậu bé này rốt cuộc vẫn không nghe chúng tôi khuyên can”.

Lại Tra Hòa La lại có các người bạn tri thức thân hậu, nghe Lại Tra Hòa La muốn đến chỗ đức Phật làm Sa môn nhưng cha mẹ không cho nên nằm dài dưới đất trống không uống không ăn đã năm ngày rồi, nên các tri thức thân hậu đồng đến chỗ Lại Tra Hòa La khuyên can, bảo đứng dậy tắm rửa, ăn uống nói rằng: “Lúc cha mẹ bạn chưa có bạn, đã cầu đảo chư thiên, mặt trời, mặt trăng, cúi lạy bốn phương để cầu xin được một đứa con thì chính là bạn đó. Vậy bạn nên cúng dường cha mẹ, làm người thừa kế sau này. Ví dầu bạn có chết đi thì cha mẹ bạn vẫn thường muốn ngồi bên xác bạn cho đến tuổi già, huống chi nay bạn còn sống mà muốn xa lìa sao?”.

Lại Tra Hòa La cũng không trả lời. Tri thức thân hậu lại đến trước cha mẹ của Lại Tra Hòa La khóc lóc, họ đều gạt nước mắt nói rằng: “Hai bác nên cho cậu ấy được làm Sa môn. Vì sao vậy? Vì như cậu ấy thích đạo làm Sa môn sau đó còn sống để gặp nhau. Nếu như cậu ta không thích đạo thì sẽ bỏ đạo trở về nhà, ý hai bác thế nào? Nay nếu không cho cậu ấy đi, nhất định cậu ấy sẽ chết, thân thể hôi thối, bị trùng kiến ăn thịt xác người chết. Nay cậu ấy đang thở dồn dập có thể bị chết”.

Lúc ấy cha mẹ, vợ con, kỷ nữ, tông tộc, tri thức trong nhà thảy đều khóc lớn. Cha mẹ lau nước mắt nói với Lại Tra Hòa La: “Các tri thức thân hậu đã giao ước với con rằng sau khi con được làm Sa môn con phải trở về thăm cha mẹ chứ”.

Lại Tra Hòa La đáp rằng: “Hãy cho con đi đến chỗ đức Phật để làm Sa môn thì con sẽ sống, không chết, tương lai con sẽ trở về thăm lại cha mẹ”.

Cha mẹ Lại Tra Hòa La nghe lời ấy rồi lại khóc rống liền cho phép Lại Tra Hòa La làm Sa môn. Lại Tra Hòa La rất vui mừng tự nghĩ: “Ta đã không ăn năm ngày rồi thân thể rất ốm yếu. Bấy giờ đức Phật từ Thâu La Âu Tra đi đến nước Xá Vệ, đã cách năm trăm dậm, vậy ta hãy tự bồi dưỡng, chờ thân thể khỏe mạnh rồi sẽ đi”.

Lại Tra Hòa La tự bồi dưỡng cơ thể vài ngày thấy đã có sức lực, đến trước thưa với cha mẹ: “Cha mẹ hãy tự an lòng. Con sẽ đến chỗ đức Phật xin làm Sa môn”.Cha mẹ Lại Tra Hòa La lại khóc rống, gạt lệ nói rằng: “Hãy đi đi con thân yêu”.

Lại Tra Hòa La lại lấy đầu mặt lạy dưới chân cha mẹ, đứng dậy nhiễu quanh cha mẹ ba lần rồi đi đến tịnh xá Kỳ Hoàn, nước Xá vệ trình diện đức Phật đảnh lễ đức Phật xong thưa rằng: “Cha mẹ con đã cho phép rồi, cúi mong đức Phật cho con làm Sa môn”.

Ðức Phật liền cho tôn giả làm Sa môn, mặc áo cà sa, thọ kinh giới của Sa môn. Ðức Phật bảo các A la hán mỗi ngày thay nhau dạy dỗ, không được làm hủy thương kinh giới. Tôn giả tự tư duy về kinh đạo liền đắc tứ thiền, đắc quả Tu đà hoàn, thứ nhất; Tư đà hàm, thứ hai; A na hàm, thứ ba; A la hán, thứ tư; liền đắc bốn thần túc phi hành, có thể dùng thiên nhãn thấy xa, thiên nhĩ nghe xa. Nhân dân ở trên trời, dưới trời và loài sâu bọ côn trùng đều nghe biết điều chúng nói và ý chúng nghĩ, tự biết túc mạng từ đâu sanh đến. Tôn giả theo Phật mười năm như bóng theo hình. Sau mười năm tôn giả suy nghĩ: “Lúc xưa ta lìa nhà, giã từ cha mẹ, nay phải trở về để thăm hỏi”. Lại Tra Hòa La bạch đức Phật: “Lúc xưa con lìa nhà, nay phải trở về để thăm cha mẹ. Xin đức Phật cho phép được về thăm cha mẹ”.

Bấy giờ đức Phật nghĩ: “Lại Tra Hòa La này không thể trở lại đời sống ái dục như lúc ở nhà được, vì đã từ ái dục mà giải thoát”. Ðức Phật nói: “Rất tốt”.

Tôn giả liền đảnh lễ đức Phật rồi đi ra, lần lượt đi đến nước Thâu La Âu Tra. Vào lúc sáng sớm tôn giả mang y cầm bát vào xóm của cha mẹ mình, hướng đến trước cửa nhà mình để khất thực làm đạo Sa môn phải sanh tâm vong ngã (quên mình đi) mới là người trượng phu. Cả nhà đều chẳng thèm nhìn ngài. Vì sao vậy? Vì cả nhà có ác kiến với Sa môn cho nên không thèm nhìn ngài. Lại Tra Hòa La đi đến trước cửa nhà mình, chẳng ai cho gì, cũng chẳng ai thèm nhìn, chẳng ai hỏi han, chỉ bị mắng nhiếc. Tôn giả vẫn không buồn, không sầu muộn. Vừa muốn ra khỏi nhà, lúc đó có người nô tỳ vừa ra khỏi cửa để đổ đồ ăn thừa, tôn giả Lại Tra Hòa La thấy nô tỳ liền nói: “Này cô em, cô dùng đồ ăn hôi thối này để làm gì?”.

Khi ấy nô tỳ đáp: “Ðồ ăn hôi thối này không thể dùng được nữa, cho nên tôi muốn đem đổ đi”. Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Nếu cô em muốn đổ đi thì hãy cho ta”.

Nô tỳ liền đổ vào bình bát của tôn giả. Cô ta ngầm nhận ra Lại Tra Hòa La qua tay chân và lời nói, cô ta nghĩ: “Ðây là người con trai của chủ mình”. Cô ta liền chạy vào nhà báo cho mẹ của tôn giả biết là con trai của bà đã đến, đang ở bên ngoài.

Mẹ của tôn giả hết sức vui mừng nói với nô tỳ: “Nếu đúng như lời ngươi nói thì ngay ngày hôm nay ta sẽ cho ngươi được tự do trở thành người lương dân. Bà liền lấy y phụcchâu ngọc đang trang điểm thân thể đem cho mẹ của nô tỳ. Bà liền chạy đến chỗ chồng, lúc ấy ông đang đứng trong nhà chải tóc, bà nói: “Con nô tỳ thấy đứa con của chúng ta về đứng ở trước cửa nhà mình, tôi liền nói với nô tỳ nếu quả thật người thấy Lại Tra Hòa La ta sẽ cỡi bỏ y phụcchâu báu đang trang điểm trên thân cho ngươi và cho ngươi được tự do trở thành lương dân”.

Mẹ của tôn giả nói với chồng: “Thưa ông, hãy đứng dậy nhanh để bố thí cho người khất thực”. Cha của tôn giả liền sửa lại đầu, chạy ra các ngã tư đường làng để tìm người hành khất, thấy tôn giả Lại Tra Hòa La ở chỗ vắng, ngẩng đầu nhìn trời, vừa đúng giờ ăn liền đứng lại để ăn đồ ăn đã thiu thối ấy. Cha của tôn giả liền đến phía trước nói với Lại Tra Hòa La: “Sao con không vào nhà? Ngồi chỗ đẹp, ăn cơm canh ngon, sao lại đứng ở đây ăn đồ ăn thiu thối?”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La thưa với cha: “Tôi đã bỏ nhà học đạo, làm Sa môn không nhà, vậy tôi làm gì có nhà mà cha nói cùng về nhà”. Tôn giả không chịu đi, cha tôn giả lại mời: “Xin mời tôn giả sáng mai đến nhà này để thọ thực và gặp mẹ ngài”. Tôn giả Lại Tra Hòa La thưa: “Rất tốt!”.

Cha của tôn giả trở về nói với vợ: “Lại Tra Hòa La quả thật có đến đây. Tôi đã mời con sáng mai đến nhà để dùng cơm. Con của chúng ta đã nhận lời mời, vậy bà phải chuẩn bị cơm nước đầy đủ”.

Mẹ của tôn giả liền gọi những nô tỳ ở trong nhà đến trước bảo rằng: “Lúc mới làm lễ nhập môn, cha mẹ ta có cho ta vàng bạc, bạch châu, trân bảo. Các ngươi đem tất cả chúng để giữa sân đất, lấy đồ che lên trên”. Nô tỳ liền theo lời mẹ của tôn giả dạy đem tất cả vàng bạc, bạch châu, trân bảo chất hết giữa sân, lấy đồ che lên trên cao hơn đầu người.

Tôn giả Lại Tra Hòa La đến giờ ăn, mang y cầm bát đi đến nhà cha mẹ. Cha mẹ tôn giả từ xa trông thấy con đi vào ngõ, mẹ tôn giả liền lấy vật che trên đống vàng bạc, đi đến trước tôn giả hai tay bà hốt vàng bạc tung lên, nói với tôn giả Lại Tra Hòa La rằng: “Con hãy nhìn vàng bạc châu báu này, chính là vật sở hữu của mẹ lúc nhập môn. Còn kim ngân, vàng bạc của cha con thì nhiều vô số. Con hãy dùng nó để bố thí, ăn tiêu, vui chơi thỏa thích. Con làm Sa môn sao bằng làm người bạch y, ở nhà được tự tại”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La thưa với cha mẹ: “Nếu như cha mẹ chấp nhận lời đề nghị của con, con muốn xin cha mẹ một chuyện”. Cha mẹ tôn giả nói: “Tốt lắm! Chúng ta chấp nhận”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La thưa rằng: “Xin lấy tất cả báu vật che trên đó, dùng một cái đãy bỏ chúng vào trong, đặt lên trên xe, đem đến bờ sông Hằng coi chỗ nào thật sâu rồi bỏ xuống đó. Vì sao vậy? Vì người nào cất chứa tài bảo thì nó làm cho kẻ ấy nhiều sầu muộn, hoặc họ sợ huyện quan chiếm đoạt, trộm cướp lấy đi, hoặc sợ nước trôi, lửa cháy, hoặc sợ oan gia phá hủy.

Cha mẹ tôn giả liền sanh ý nghĩ: “Không thể dùng tiền tài để cảm hóa Lại Tra Hòa La được. Vậy chúng ta thử đem các mỹ nhơn, kỷ nữ để dụ dỗ xem sao”. Bà mẹ tôn giả liền đến chỗ các mỹ nhơn, kỷ nữ, ra lệnh tất cả phải tắm rửa, trang điểm mang châu ngọc để phục sức, thứ y phụcLại Tra Hòa La ngày xưa yêu thích nhất. Mẹ của tôn giả bảo các mỹ nhơn kỷ nữ rằng: “Các ngươi đến gặp tôn giả Lại Tra Hòa La, chỉ nói rằng: “Hỡi người con của đại gia! Có ngọc nữ nào đẹp hơn chúng tôi mà khiến cho chàng bỏ chúng tôi để học đạo vì nàng?”.

Các mỹ nhơn kỷ nữ liền vâng lời mẹ của tôn giả dạy, trang điểm xong đi ra. Các mỹ nhơn kỷ nữ nói với tôn giả Lại Tra Hòa La: “Này người con của đại gia! Có ngọc nữ nào đẹp hơn chúng tôi mà khiến cho chàng bỏ chúng tôi đi học đạo để tìm nàng ta?”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La nói với các cô ấy rằng: “Ta chẳng tìm ngọc nữ nào mà bỏ các cô em cả”. Các mỹ nhơn kỷ nữ nghe tôn giả nói như vậy liền thẹn thùng, quỳ xuống cúi đầu, lấy tay che mặt nói rằng: “Chúng tôi là vợ của chàng, sao chàng lại gọi chúng tôi là em gái!”.

Lúc ấy tôn giả Lại Tra Hòa La nói với cha mẹ rằng: “Tại sao làm phiền nhau. Nếu muốn thí cơm thì đó là tốt, không muốn cúng thì thôi”. Cha mẹ tôn giả liền dâng đầy đủ các món ngon để tôn giả dùng. Cha mẹ tôn giả muốn nhìn con thật lâu, họ sợ con ăn xong rồi đi liền, họ bảo nô tỳ đóng các cửa ngõ dùng khóa khóa lại.

Tôn giả ăn xong nói kinh cho cha mẹ nghe rằng: “Ðối với các dã nhơn, đạo nhơn, họ như thú rừng không nên bắt nhốt, làm cho chúng không được tự tại. Hãy thả tôi ra, tôi ăn rồi đi. Tôi ví như thú rừng được thoát, liền vào núi sâu. Chải đầu, thoa phấn, kẻ mi trắng đen đủ loại, thứ ấy chỉ làm mê hoặc kẻ ngu si, chứ đối với người đã thoát khỏi thế gian làm sao mê hoặc. Hãy nhìn cái bộ xương này với da thịt bao phủ, trang điểm bằng vàng bạc, châu ngọc, vòng đeo tai với ngọc ngà lộng lẫy, ai đam mê kẻ ấy như đi vào trong nước sôi, lửa đỏ, lửa đâu có ưa. Với hương liệu bôi xoa thân thể, nó chỉ gạt được người si dại, nhưng làm sao gạt được người đã thoát khỏi cuộc đời. Vì không thể tự biết phải làm gì nên mới làm vậy. Cũng không thể phân biệt cha mẹ, cũng không thể phân biệt anh em, khi lòng người có điều ái dục thì không thể tự mình đoạn tuyệt được. Phụ nữ giống như các dòng nước đều chảy vào biển cả. Người ngu chạy theo nữ nhơn nên mới trôi lăn vào trong địa ngục, súc sanh và quỷ đói. Nếu muốn thoát khỏi sự ưu sầu khổ não trong đường sanh tử, muốn được đạo Niết bàn cần phải xa lìa phụ nữ”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La thuyết kinh cho cha mẹ nghe xong liền bay lên trời qua đường cửa sổ rồi đi thẳng giống như con sư tử chạy thoát.

Bấy giờ quốc vương Câu Liệp vốn có thân tình với tôn giả Lại Tra Hòa La từ thuở nhỏ. Nhà vua có một viên quán ở ngoài thành. Lúc tôn giả Lại Tra Hòa La phi hành đến phía trước, vào trong viên quán ngồi dưới gốc cây Duy Hê Lặc. Khi ấy vua Câu Liệp bỗng nhiên đến lầu quán để vui chơi, liền ra lệnh người coi khu vườn chuẩn bị quét dọn. Viên coi vườn vâng lệnh đi quét dọn, thấy tôn giả Lại Tra Hòa La đang ngồi ở dưới gốc cây Duy Hê Lặc. Viên coi vườn thấy rồi liền đến tâu với vua: “Thần đã quét dọn sạch sẽ xong rồi. Ðức vua thường nói có bạn tri thức thân hậu là Lại Tra Hòa La, nay tôn giả ấy đang ngồi dưới gốc cây trong lâu quán. Nếu đức vua muốn gặp tôn giả vậy hãy đến đó”.

Nhà vua nghe vậy hết sức vui mừng, sửa soạn xe cộ xong liền đến phía ngoài lâu quán, xuống xe đi bộ đến chỗ tôn giả Lại Tra Hòa La, tới phía trước đảnh lễ rồi ngồi xuống. Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Nhà vua đến đây thật hết sức tốt”.

Vua nói: “Tuy ta tự đến nhưng tôn giảtri thức của ta lúc nhỏ. Nếu muốn dùng tài vật thì ta sẽ tặng như ý muốn”. Tôn giả Lại Tra Hòa La trả lời vua rằng: “Không nên đem tiền của ban tặng cho tôi. Nay tôi đã vứt bỏ được gánh nặng, giải thoát khỏi lao ngục ấy. Nhà vua lại muốn đem cái gánh nặng lao ngục ấy đặt lên thân tôi sao. Vậy đừng đem các thứ ấy đến cho tôi”.

Vua nói : “Vậy ta nên đem vật gì để tặng tôn giả?”. Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Vua chỉ nên nói nay nước của ta giàu có, ngũ cốc dồi dào, dân chúng đông đúc, khất thực dễ được,ngài có thể ở lại trong nước ta, ta ra lệnh các quan dân không dược xâm phạm ngài”. Nhà vua nói: “Xin thọ giáo lời dạy ấy, tôi sẽ làm như Lại Tra Hòa La mong ước và điều ngài nói”.

Vua nói: “Tôi có điều muốn hỏi, xin ngài lắng nghe tôi sẽ nói”. Lại Tra Hòa La nói: “Rất tốt”. Vua liền nói: “Phàm người làm Sa môn phải có bốn việc khổ, sau đó mới làm Sa môn. Những gì là bốn? Một là tuổi già, hai là bệnh hoạn, ba là cô độc, bốn là bần cùng. Con người vì bốn sự khổ này nên mới làm Sa môn. Nay tôi thấy tôn giả hoàn toàn không có bốn điều này vì sao lại làm Sa môn?”.

Vua nói: “Sở dĩ người tuổi già mới làm Sa môn là vì người già tự nghĩ khí lực yếu kém, đứng ngồi khổ sở, không thể đi xa làm ăn để kiếm tiền của, nếu có tiền của cũng không thể giữ vững, do đó cho nên mới cạo bỏ râu tóc là Sa môn. Tôi thấy tôn giả không có trường hợp này. Tôn giả đầu tóc đen nhánh, thân thể tròn đầy, vừa đang độ tuổi thanh niên, đang tự vui chơi, nhưng tôn giả lại làm Sa môn để cho cha mẹ của tôn giả khóc lóc rơi lệ buồn bã.

Hai là hoặc có người thân thể bị bệnh nặng, ốm yếu tự nghĩ rằng: “Ta không thể mưu sinh để có tiền tài, nếu có tiền tài cũng không thể giữ vững được”. Do đó cạo bỏ râu tóc làm Sa môn. Tôi thấy tôn giả hoàn toàn không có trường hợp bị bệnh nặng, thân thể lại cường tráng.

Ba là có người cô độc một thân, không thể mưu sinh để có tiền tài, hoặc nếu có tiền tài cũng không giữ vững được vì vậy làm Sa môn. Tôi thấy tôn giả hoàn toàn không có như vậy, trừ vua tông tộc ra thì trong nước của ta không ai hơn tôn giả về mặt này.

Bốn là người bần cùng đói lạnh, không thể tự nuôi sống được, kẻ ấy tự nghĩ: “Mình bần cùng không thể mưu sống được. Do đó nên cạo bỏ râu tóc làm Sa môn để được bố thí mà sống còn. Tôi thấy tôn giả hoàn toàn không có trường hợp này. Tôi thấy những kẻ giàu có trong nước không ai hơn tôn giả về mặt này. Người ta vì bốn sự khổ này nên mới làm Sa môn. Vua hỏi tôn giả: “Thưa tôn giả, vậy lại có trường hợp nào ngoài bốn trường hợp này mà khiến cho người ta làm Sa môn chăng?”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La đáp: “Ðức Thế tôn thường dạy cho tôi bốn việc đều phải biết rõ, đem dạy cho người. Trong tâm tôi hiểu biết như lời Phật dạy nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, làm Sa môn. Những gì là bốn?

* Một là con người không ai tránh khỏi già, không ai có thể làm cho thân mình không già.

* Hai là không ai có thể tránh khỏi bệnh, thân mình không thể chết thay cho người khác được.

* Ba là người chết ra đi một mình, không ai có thể mang tài sản theo.

* Bốn là con người cho đến chết vẫn không thể nhàm chán ái dụccủa cải. Con người làm nô lệ cho tài sảnái dục.

Ðức Phật đã dạy cho tôi bốn việc này, trong tâm tôi chỉ tin điều ấy cho nên làm Sa môn. Vua nói: “Tôn giả nói bốn việc này quá cô đọng, ý tôi không hiểu, xin tôn giả nói rộng cho tôi hiểu”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Nay tôi hỏi vua, xin vua cứ thành thật trả lời tôi. Nhà vua lúc hai mươi tuổi, ba mươi tuổi cho đến lúc bốn mươi tuổi, khí lực, có tài bắn tên, cỡi voi, phi ngựa, chạy nhanh, mà lúc đó ngài tự cho là vô song, nay có còn không?”. Nhà vua nói: “Ðúng như lời Lại Tra Hòa La nói, lúc hai mươi tuổi, ba mươi tuổi cho đến lúc bốn mươi tuổi, tôi tự thấy mình là vô song như nghề bắn tên, cỡi voi, phi ngựa, chạy đua. Nay tôi tuổi đã già nua, khí lực suy yếu đứng ngồi khổ sở, ý muốn thoát khỏi sự khổ ấy nhưng không thể thoát được”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Ðức Phật nói một việc này, do đó mà tôi cạo bỏ râu tóc làm Sa môn”. Nhà vua nói: “Ðức Phật nói việc này thật kỳ diệu, thật thiện xảo đã thâm nhập vào tim tôi”. Tôn giả Lại Tra Hòa La hỏi nhà vua: “Ở trong nước có những người cận thần, bá quan nhờ vua mà được sanh sống chăng?”. Nhà vua nói: “Ðúng vậy”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Nhà vua có từng bị bệnh khổ nằm liệt giường chăng?”. Nhà vua nói: “Quả có như vậy”. Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Lúc bị bệnh nằm liệt giường, nhà vua gọi kẻ cận thần, bá quan đã nhờ vua mà được sinh sống dạy rằng: “Nay ta bị bệnh nguy khốn kịch liệt, các ngươi hãy cùng nhau chia bệnh của ta ra, mỗi người lãnh một ít”. Dù vua có nói như vậy thì họ có thể chia nhau lãnh cơn bệnh của vua được chăng?”. Nhà vua nói: “Không thể được. Nếu thân ta bị bệnh thì phải tự chịu lấy chứ cận thần không thể thay thế được”. Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Ðức Phật dạy như vậy, đó là việc thứ hai vì vậy mà tôi làm Sa môn”.

Nhà vua nói: “Thật là kỳ đặc, thật là khéo léo! Ðiều ấy đã thâm nhập vào tâm tôi”. Tôn giả Lại Tra Hòa La hỏi nhà vua: “Khi con người thọ mạng sắp hết thì phải chết, trong tâm con người rất buồn. Tuy rất buồn nhưng không thể thoát khỏi cái chết - tôn giả Lại Tra Hòa La nói - con người tự biết sẽ chết, tại sao không trù tính việc đem các châu báu đến chỗ tái sanh?”. Nhà vua nói: “Không thể mang theo châu báu đến chỗ mình sẽ tái sanh được. Tất cả đều phải vất bỏ ra đi một mình mà thôi”. Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Ðức Phật nói như vậy. Ðó là việc thứ ba cho nên tôi mới làm Sa môn”. Nhà vua nói: “Ðức Phật dạy việc này thật là kỳ lạ đặc biệt, thật là khéo léo đã thâm nhập vào tâm tôi”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La hỏi vua: “Ðại vương, có phải trong nước ngài được bình yên, nhân dân đông đúc, ngũ cốc dồi dào chăng?” Nhà vua đáp: “Quả đúng như vậy”. Tôn giả Lại Tra Hòa La nói rằng: “Nếu có người từ phương Ðông đến chí thành nói với vua thì vua cũng sẽ tin lời người ấy rằng tôi từ phương Ðông đến, thấy có một nước lớn, trong nước ấy giàu có, nhân dân đông đúc, tôi biết con đường tắt xuyên qua nước đó. Ngài có thể đem binh của vua đến chinh phạt để lấy nước ấy”. Nếu nhà vua nghe lời nói ấy, có muốn bảo người qua chiếm nước ấy chăng?”. Nhà vua nói: “Có chứ, vì tham lợi của nước ấy mới vào muốn chiếm nước ấy”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Nếu lại có người từ phương Nam, phương tây và phương Bắc đến nói: “Có một nước.... “ như người phương Ðông vậy, nhà vua có muốn chiếm nước ấy không?”. Nhà vua đáp: “Có chứ, vì tham cái lợi của nước ấy mà vào chiếm lấy nước ấy”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La nói rằng: “Nếu lại có một người ở bên biển đi đến nói lời chí thành với vua thì vua cũng tin lời của người ấy rằng: “Ở bên biển có một nước lớn, trong nước ấy ngũ cốc dồi dào, nhân dân đông đúc. Tôi biết con đường tắt xuyên qua nước đó, ngài có thể đem binh của nhà vua đến để công phạt nước ấy”. Nhà vua nghe lời ấy rồi có muốn bảo người đến chiếm nước ấy chăng? Nhà vua đáp: “Có chứ, vì tham cái lợi của nước ấy cho nên muốn chiếm”. Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Ðức Phật thấy việc này biết con người khổ là do tham, do không biết đủ. Ðó là việc thứ tư do vậy mà tôi làm Sa môn”. Ðức Phật thấy bốn việc này nên mới dạy con người phải biết ngăn chặn.

Nhà vua nói: “Ðức Phật nói việc này hết sức kỳ lạ đặc biệt, hết sức khéo léo, đã thâm nhập vào tâm tôi”. Nhà vua nói: “Ðức Phật dự biết việc quá khứ, vị laihiện tại giỏi tới như vậy sao?”. Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Nhà vua đã có nước của mình và nước bốn phương mà vẫn chưa biết đủ, lại còn hy vọng muốn chiếm nước ở hải ngoại nữa. Ðức Phật thấy con người thế giancủa báu đều lo cất kỷ, không chịu bố thí cho người khác, xan tham cất giấu, lại còn mong cầu thêm. Từ vua chúa đến nhân dân đều không biết nhàm chán, biết đủ cho đến lúc chết vẫn không bỏ ái dục. Hãy bỏ lòng tham, vì lúc chết của cải, châu báu đều để lại thế gian, phải theo con đường thiện hay ác do chính người ấy tạo ra. Sự thiện hay ác đi theo con người như bóng theo hình. Con người sau khi chết, gia thất tôn thân khóc lóc bi ai, khâm liệm chôn cất, con người khi sinh ra một mình thì lúc chết cũng một mình. Tự thân tạo ra điều thiện ác thì chính thân phải lãnh chịu, không có ai có thể thay thế được. Ðồ ẩm thực, kim ngân, châu báu không thể làm cho người ta đắc đạo, tiền của không thể cứu mạng người thoát khỏi già chết. Sự suy nghĩ của con người đa đoan, đó chính là sự ái lạc của con người. Tâm ý con người luôn luôn thay đổi, không thể chuyên nhất”.

Ðức Phật dạy: “Vì con người buông lung tâm ý cho nên phải gặp sự hung biến, tai họa, sợ hãi. Thí như ý nghĩ khoét tường để ăn trộm, sau đó lấy được của. Thân đã làm điều ác, tự sập vào bẫy chết. Như người thế gian làm ác, sau khi chết phải đọa vào địa ngục, súc sanh hay ngạ quỹ. Thí như cây cối sanh hoa lá, kết thành trái, có khi có hoa thì rụng, có khi có trái thì rụng, có khi trái lớn thì rụng, có khi trái chín thì rụng. Con người cũng như vậy, có lúc mới thọ thai liền chết, có lúc mới sanh liền chết, có khi tuổi thành niên bị chết, có khi tuổi già bị chết. Mạng người không thể biết được”. Tôn giả Lại Tra Hòa La nói: “Do vậy mà tôi làm Sa môn. Kẻ phàm phu gọi tôi là người không thể lo nổi việc nhà cho nên làm Sa môn. Tuy có luận nghị đủ thứ cũng không bằng học đạo”.

Tôn giả Lại Tra Hòa La nói kinh pháp xong, nhà vua liền được đạo Tu đà hoàn thứ nhất, liền thọ năm giới: 1/ không sát sanh, 2/ không trộm cắp, 3/ không xâm phạm phụ nữ khác, 4/ không nói giới, 5/ không uống rượu. Nhà vua thọ giới xong liền đảnh lễ lui ra. 

PHẬT NÓI KINH LẠI TRA HÒA LA

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32581)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12033)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12571)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34443)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12521)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9117)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12614)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11939)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14854)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20532)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13853)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant