Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Số

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14902)
Kinh Số


PHẬT NÓI KINH SỐ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0070 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở Ðông viên, Lộc Tử Mẫu giảng đường, nước Xá vệ.

Bấy giờ Bà la môn toán số, sau bữa trưa thong dong tản bộ đi đến chỗ đức Thế Tôn, khi đến chào hỏi, rồi ngồi qua một bên. Bà la môn bạch đức Thế Tôn:

–Thưa Cù Ðàm, tôi có điều muốn hỏi, nếu ngài cho phép tôi mới dám hỏi.

Ðức Thế Tôn nói:

–Ngươi cứ hỏi, này Bà la môn, theo ý ngươi thích.

Toán số Bà la môn thưa:

–Thưa Cù Ðàm, Lộc (Tử Mẫu) giảng đường này được xây cất theo thứ lớp và thành tựu theo thứ lớp. Này Cù Ðàm, cầu thang trong Lộc giảng đường này bắt đầu lên một nấc, như vậy rồi đến hai, ba, bốn. Này Cù Ðàm, như vậy giảng đường Lộc lần lượt theo thứ tự đi lên. Này Cù Ðàm, sự điều phục voi này cũng lần lượt dạy dỗ và con voi cũng theo thứ tự học. Nghĩa là tay cầm móc câu (mà dạy) vậy. Này Cù Ðàm, sự cỡi ngựa này cũng thứ lớp dạy dỗ và thứ lớp học tập, nghĩa là do dây cương vậy. Này Cù Ðàm, dòng Sát lợi cũng lần lượt dạy dỗ và lần lượt học tập, nghĩa là cầm cung tên. Này Cù Ðàm, Bà la môn này cũng thứ lớp dạy dỗ, thứ lớp học tập, nghĩa là học thơ, văn chương. Này Cù Ðàm, chúng tôi học toán số, nhờ toán số mà mưu sinh. Nếu có đệ tử học toán số, đó là các trẻ em, bắt đầu được dạy từng con số một, rồi hai, hai rồi ba, hai, ba rồi mười, một trăm, hoặc tăng lên thật nhiều. Như vậy, này Cù Ðàm, chúng tôi học toán số, nhờ toán số mưu sinh, thứ lớp dạy, thứ lớp học. Ðó là học toán số. Sa môn Cù Ðàm, với pháp luật này được dạy như thế nào và được học như thế nào để có thể biết được (sự thành tựu)?

Ðức Thế Tôn nói:

–Này (Toán) số Mục Kiền Liên, nếu nói như vậy là những gì ngươi tuyên thuyết chăng? Ðó là thứ lớp dạy dỗ, thứ lớp học tập, giữ giới, dạy học? Này Mục Kiền Liên, nếu nói như vậy là thứ lớp nói thì đó chính là pháp luật của ta vậy. Vì sao? Này Mục Kiền Liên, vì đối với pháp luật của ta thứ lớp dạy dỗ, thứ lớp hành giới, thứ lớp học tập. Này Mục Kiền Liên, đó là đối với Tỳ kheo mới học đạo không lâu, đến với pháp luật này cũng chưa được nghe đức Như Lai dạy. Ta dạy: “Này Tỳ kheo, với thân phải làm những việc trong sạch, miệng và ý phải làm những việc trong sạch”. Này Mục Kiền Liên, nếu thân, miệng và ý làm những việc trong sạch. Ðức Như Lai vô thượng dạy thêm: “Này Tỳ kheo, hãy quán nội thân như thân hành chỉ; cho đến hãy quán thống, ý, pháp như pháp hành chỉ”. Này Mục Kiền Liên, đó là Tỳ kheo quán nội thân như thân hành chỉ; cho đến hãy quán thống, ý, pháp như pháp hành chỉ rồi, đức Như Lai vô thượng dạy thêm: “Này Tỳ kheo, hãy hộ trì căn môn, tự giữ gìn ý niệm, tất đều tự hành tinh tấn. Nếu mắt thấy sắc, đừng chấp thủ sắc tưởng, đừng đắm nhiễm tưởng người khác. Ðó là nhờ nhân duyên hỗ trợ nên thủ hộ nhãn căn, tâm sẽ không bị sỉ nhục, tham ưu, lo lắng, không tạo pháp ác bất thiện; ở trong đó học thủ hộ nhãn căn. Cũng vậy, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn, thân ý biết pháp, đừng chấp thọ tưởng, đừng chấp thọ tưởng người khác. Ðó là nhờ nhân duyên hổ trợ nên thân, ý căn này không bị sỉ nhục, tham ưu và lo lắng, không có pháp bất thiện, không trụ nơi ý, kẻ ấy ở trong đó học cách thủ hộ ý căn”.

Này Mục Kiền Liên, nếu Tỳ kheo đầy đủ các căn môn, tự thủ hộ tâm ý, ý không nhiễm, thủ hộ ý, ý cùng niệm đồng hành tinh tấn. Khi mắt thấy sắc cũng không thọ tưởng, không thọ tưởng người khác. Ðó là nhờ tăng thượng duyên vậy, nên nhãn căn được đầy đủ, không bị sỉ nhục, tham ưu lo lắng, không ở trong pháp ác bất thiện. Kẻ ấy học cách tự thủ hộ nhãn căn; cũng vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý biết pháp, cũng không thọ tưởng, cho đến kẻ ấy ở trong đó học cách tự thủ hộ ý căn. Ðức Như Lai, bậc vô thượng dạy tiếp: “Này Tỳ kheo, hãy hành quán các lỗi lầm đã qua, hãy quán biết lúc co lúc duỗi, đắp y Tăng già lê, ôm bát, lúc đi, lúc đứng, lúc ngồi, hoặc ngủ hoặc thức, hoặc nói hoặc im, thảy đều biết rõ”.

Này Mục Kiền Liên, nếu Tỳ kheo đối với các lỗi lầm đã qua, cho đến hành đối với đẳng hành rồi, đức Như Lai bậc vô thượng lại dạy thêm: “Này Tỳ kheo, khi biết giường nằm rồi mới thọ dụng, hoặc ở nơi vắng vẻ, hoặc ở dưới gốc cây, chỗ trống không vắng vẻ, ở trong sườn núi, động đá, ngồi trên tòa cỏ giữa trời, giữa rừng, giữa gò mả. Kẻ ấy hoặc ở nơi vắng vẻ, hãy trải ni sư đàn, ngồi kiết già, chánh thân chánh nguyện, nhiếp niệm ở trước mặt, đoạn trừ tham lam tật đố, ý không sân hận, đừng thấy tài vật của người khác phát sanh lòng tham, nghĩa là mong vật của người khác trở thành của mình, hãy tịnh trừ ý tham ấy. Cũng vậy, đối với sân hận, giải đãi, ngủ nghĩ, trạo hối, hổ thẹn, trừ nghi, tham, lìa tà, lìa nghi, lìa các pháp do dự, hãy thanh tịnh ý nghi. Người ấy đoạn trừ ngũ cái, và ý đắm trước, trí tuệ yếu kém, đã giải thoát dâm, cho đến an trụ tứ thiền.

Như vậy, này Mục Kiền Liên, Tỳ kheo đã giải thoát dâm cho đến an trụ tứ thiền, thì này Mục Kiền Liên, đức Như Lai vì để cho Tỳ kheo sơ học được nhiều lợi ích, nghĩa là Ngài dạy học, giáo hạnh. Này Mục Kiền Liên, nếu đối với các Tỳ kheo thượng tôn mà các vua đều biết, không giải đãi, thực hành phạm hạnh, đức Như Lai bậc vô thượng dạy rằng: “Hãy thành tựu rốt ráo, diệt sạch hữu lậu”.

Toán số Mục Kiền Liên thưa:

–Này Sa môn Cù Ðàm, đối với tất cả đệ tử, Ngài dạy như vậy, phải học như vậy, tất cả đều đạt được cứu cánh, đạt Niết bàn chăng?

Thế Tôn đáp:

–Này Mục Kiền Liên, không phải nhất định đều đạt được. Hoặc có người không đạt được, hoặc có người đạt được.

Toán số Mục Kiền Liên lại hỏi:

–Này Cù Ðàm, do nhân gì duyên gì nói rằng có Niết bàn, và cầu Niết bàn đạo, và Sa môn Cù Ðàm hiện tại là bậc Ðạo sư mà có Tỳ kheo được dạy dỗ như vậy, được học tập như vậy, mà có người đạt cứu cánh Niết bàn, nhưng người khác thì không đạt?

Ðức Thế Tôn nói:

–Do đó, này Mục Kiền Liên, nay ta lại hỏi ngươi, tùy theo sự hiểu biếttrả lời ta. Này Mục Kiền Liên, ý ngươi nghĩ sao? Ngươi có biết rõ con đường về La duyệt kỳ chăng?

Thưa rằng:

–Thưa vâng, Cù Ðàm, tôi biết rõ con đường về La duyệt kỳ.

Ðức Thế Tôn nói:

–Nếu có một người muốn đến La duyệt kỳ để yết kiến vua, kẻ ấy đến chỗ ngươi nói rằng: “Này Bà la môn Mục Kiền Liên, người biết rõ toán số, con đường đi đến La duyệt kỳ, tôi muốn hỏi đường đến La duyệt kỳ để yết kiến vua”. Ngươi sẽ nói với người ấy rằng: “Ngươi nên theo con đường chánh này mà đi, sẽ đến thôn kia, rồi từ thôn ấy đến chỗ kia. Lần lượt như thế sẽ đến thành La duyệt kỳ (Vương xá). Ở thành La duyệt kỳ có những khu vườn xinh đẹp, rừng cây tươi tốt, đất bằng phẳng, ao tắm đẹp, nước sông chảy dài mát lạnh, an ổn khoái lạc. Hãy biết như vậy, hãy thấy như vậy”. Người ấy sau khi nghe ngươi chỉ dẫn tường tận rồi, theo lời chỉ dẫn, theo con đường đó đi thẳng, kẻ ấy đi thẳng rồi lại theo một con đường trái ngược. Cho nên đối với những khu vườn xinh đẹp cho đến sự an ổn khoái lạc của La duyệt kỳ, kẻ ấy cũng chẳng biết, kẻ ấy cũng chẳng thấy.

Lại có người khác đến yết kiến vua, muốn tới La duyệt kỳ, kẻ ấy đến chỗ ngươi hỏi rằng: “Này Bà la môn Mục Kiền Liên, ngài biết rõ toán số, chỉ cho tôi con đường đến La duyệt kỳ, tôi muốn đến La duyệt kỳ, xin ngài chỉ đường cho tôi”. Ngươi sẽ nói rằng: “Ngươi theo con đường thẳng này mà đến, đi thẳng đến một thôn, đến thôn rồi tới chỗ kia, ngươi cứ đi theo thứ lớp như vậy sẽ đến La duyệt kỳ. Ở La duyệt kỳ có vườn cây xinh đẹp cho đến được an ổn khoái lạc. Người sẽ biết như vậy, thấy như vậy”.

Này Mục Kiền Liên, do nhân gì duyên gì trong khi có thành La duyệt kỳ, có con đường đi đến thành La duyệt kỳ, và có ông là người chỉ đường, nhưng người thứ nhất nghe lời ông chỉ dẫn, lại không làm đúng, theo con đường lầm lẫn rồi trở lui? Cho nên những khu vườn, đất bằng phẳng cho đến được an ổn khoái lạc ở La duyệt kỳ, tất cả cảnh người ấy đều không biết, không thấy gì cả. Còn người thứ hai nghe theo lời dạy, vâng theo sự hướng dẫn, đi đúng đường, lần lượt đi đến thành La duyệt kỳ. Cho nên các cảnh ở La duyệt kỳ, khu vườn xinh đẹp, đất bằng phẳng ... cho đến được an ổn khoái lạc, người ấy biết hết và thấy hết.

Toán số Mục Kiền Liên đáp:

–Này Cù Ðàm, tôi biết làm sao được, có thành La duyệt kỳ đó, có con đường dẫn đến thành La duyệt kỳ. Tôi chỉ làm người giáo thọ. Người thứ nhất không làm theo sự chỉ dẫn của tôi, theo con đường lầm lẫn để lui trở lại và những gì ở La duyệt kỳ như vườn đẹp, đất bằng, cho đến... được an ổn khoái lạc, người ấy đều không thấy, không biết. Còn người thứ hai kia nghe theo lời chỉ dẫn của tôi nên đi đúng con đường ấy, lần lượt đến được La duyệt kỳ. Những gì ở La duyệt kỳ như vườn đẹp, đất bằng, ... cho đến sự an ổn khoái lạc người ấy đều biết, người ấy đều thấy cả.

Ðức Thế Tôn nói rằng:

–Cũng vậy, này Mục Kiền Liên, ta cũng biết làm sao được, có Niết bàn đó, có con đường dẫn tới Niết bàn đó. Ta chỉ là Ðạo sư. Hoặc có Tỳ kheo làm theo sự chỉ dẫn như vậy, giáo lệnh như vậy, cho nên đạt được cứu cánh Niết bàn. Hoặc có Tỳ kheo không làm đúng như vậy nên không đạt được như vậy. Này Mục Kiền Liên, đó là Tỳ kheo kia đối với sự giáo thọ ấy, ở trong chúng của Thế Tôn được thọ ký, nghĩa là người ấy đạt được cứu cánh, dứt sạch hữu lậu.

Toán số Mục Kiền Liên thưa:

–Thưa Cù Ðàm, tôi đã hiểu. Bạch Cù Ðàm, tôi đã hiểu. Thưa Cù Ðàm, cũng như trên mảnh đất tốt có khu rừng Sa La, trong đó có người giữ rừng cây Sa La, siêng năng không lười biếng. Kẻ ấy tự dùng sức lực của mình, đối với gốc rễ cây Sa La tùy theo thời mà cuốc xới, chăm sóc, bón phân, tưới nước. Nếu có chỗ thấp thì lấy đất lấp cho đầy, nếu bên cạnh có cỏ thì nhổ đi. Nếu ở bên cây có cỏ bò dài, tệ ác, cong queo không ngay thẳng, đều phòng ngừa, nhổ sạch, tỉa đi. Nghĩa là người ấy vứt bỏ những cây cỏ mới mọc, chăm sóc hết sức những cây con, tùy thời tưới nước, bón phân cho cây, lấy nước tưới cây. Bạch Cù Ðàm, như vậy trên mảnh đất tốt rừng cây Sa La về sau càng sum sê to lớn. Bạch Cù Ðàm, cũng vậy, có người dua nịnh dối trá làm điều hư huyễn, bất tín, giải đãi, loạn chí, bất định, ác trí, ý loạn, các căn rối loạn, trì giới lơ là, không hết sức phân biệt hạnh Sa môn. Sa môn Cù Ðàm đối với những kẻ ấy không thể ở chung, không thể sống chung. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, những người như vậy là phá hoại phạm hạnh. Bạch Cù Ðàm, nếu có người không có dua nịnh, cũng không có ý tà, tín hành, tinh tấn, ý thường trụ nơi định, trí tuệ, thuận kính học giới, phân biệt nhiều về hạnh Sa môn. Bạch Sa môn Cù Ðàm, bậc vô sở trước có thể ở chung với những người ấy. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, những người như vậy, đối với bậc phạm hạnh, họ là ứng pháp thanh tịnh. Bạch Cù Ðàm, cũng như trong các loại hương bằng lõi cây, Ca La (trầm hương) là bậc nhất. Vì sao vậy? Thưa Cù Ðàm, vì trầm hương đối với các loại hương bằng lõi cây, nó là tối thượng. Bạch Cù Ðàm, cũng giống như trong các loại Sa La hương thì Xích Chiên đàntối thượng. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, vì trong các loại Sa la hương thì Xích Chiên đàn là bậc nhất. Bạch Cù Ðàm, cũng như các loại thủy hoa thì hoa sen xanh là bậc nhất. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, vì trong các thủy hoa thì hoa sen xanhđứng đầu. Bạch Cù Ðàm, cũng như trong các thứ hoa trên mặt đất thì hoa Câu mâu ni bà lợi sư là bậc nhất. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, vì trong các loại hoa trên mặt đất thì hoa Bà lợi sư là đứng đầu. Bạch Cù Ðàm, cũng như giữa các luận thuyết thế gian, luận thuyết Sa môn Cù Ðàm là bậc nhất. Vì sao vậy? Vì luận thuyết của Sa môn Cù Ðàm có thể nhiếp phục tất cả học thuyết khác của ngoại đạo vậy. Bạch Thế Tôn, vì vậy cho nên nay con tự quy y phápTỳ kheo tăng. Bạch Thế Tôn, nay con xin thọ trì giới Ưu bà tắc. Kể từ hôm nay cho đến lúc mạng chung, con xa lìa sự sát sanh... nay con xin quy y Phật.

Ðức Phật thuyết như vậy, toán số Bà la môn Mục Kiền Liên nghe đức Phật dạy xong, vui mừng hoan hỷ.

 

PHẬT THUYẾT KINH SỐ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11538)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12459)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10512)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16422)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12567)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11877)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11526)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17887)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8995)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12094)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12941)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10217)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15190)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19535)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10592)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant