Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12377)
Kinh Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn


PHẬT NÓI KINH ÁT BA LA DIÊN VẤN CHỦNG TÔN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0071 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông Tấn, Sa Môn Trúc Ðàm Vô Lan

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 


Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, nước Xá vệ. Lúc ấy có năm trăm Tỳ kheo cùng câu hội.

Bấy giờ trong thành Xá vệ có năm trăm người Bà la môn, năm trăm người này cùng nhau ra khỏi thành, tự đến ngôi nhà tranh của họ ở ngoài đồng, cùng nhau ngồi xuống, bàn luận rằng:

–Lúc con người có mặt đầu tiên trên quả địa cầu thì đều là dòng Bà la môn của chúng ta, dòng Sát lợi là thứ hai, dòng Ðiền gia là thứ ba, dòng Công sư là thứ tư. Dòng Bà la môn lúc mới sơ sanh, sanh ra từ miệng của Phạm thiên, người đời nay ngược lại, sanh ra ở phía dưới. Như vậy ở trong thiên hạ, dòng dõi chúng ta là tối tôn. Dòng dõi chúng ta đều là con cháu của Phạm thiên thứ bảy. Nhưng đức Phật thì nói ngược lại, là thiên hạ chỉ có một chủng loại. Ðức Phật cho rằng dòng dõi chúng ta cùng Sát lợi, Ðiền gia, Công sư đều bình đẳng. Dòng dõi chúng ta khi chết đều được sanh lên Phạm thiên. Ngược lại thì đức Phật cho dòng dõi của chúng ta cùng với người phàm giống nhau.

Họ cùng nhau bàn luận rằng:

–Ai có thể giảng giải, phân biệt về chủng loại cùng đức Phật được?

Bấy giờ có một người con của Bà la môn, tuổi mới mười lăm, mười sáu, tên là Át Ba La Diên Ðại Thánh, biết rõ các việc thợ thuyền, sách vở, biết phương hướng đến. Trong năm trăm Bà la môn không ai có thể sánh bằng, các bậc thầy đều thờ kính. Vị ấy có thể nói kinh, biết việc thiên hạ. Thân thể của Ðại thánh Át Ba La Diên có tướng kỳ đặc.

Các Bà la môn cùng nhau bàn luận rằng:

–Chỉ có Át Ba La Diên mới có thể đàm luận cùng đức Phật được. Chúng ta thì không thể cùng đàm luận với đức Phật.

Năm trăm người Bà la môn cùng nhau bảo Át Ba La Diên rằng:

–Ðức Phật cho rằng người trong thiên hạ chỉ có một chủng tánh. Dòng họ chúng ta cùng Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư khác nhau. Dòng họ chúng ta từ Phạm thiên đến, sanh từ miệng Phạm thiên, nhưng nhơn sanh đời này lại sanh ra ở phía dưới. Ðức Phật nói: “Thiên hạ có bốn chủng tánh, bốn chủng tánh này đều tốt như nhau”. Mong Át Ba La Diên tự hạ cố cùng đi với chúng tôi đến chỗ đức Phật để cùng nghị luận.

Át Ba La Diên nói rằng:

–Ðức Phật là người nắm giữ chánh đạo, có thể đáp ứng theo chánh đạo. Nếu muốn đem chủng tánh Bà la môn đến để hỏi thì được. Chớ không ai có thể bàn chánh đạo với Ngài được.

Năm trăm Bà la môn đều nói:

–Chúng ta tôn thờ Át Ba La Diên làm thầy, sao lại không đến bàn luận với đức Phật về bốn chủng tánh này?

Họ nói với nhau như vậy đến hai, ba lần nên Át Ba La Diên liền đứng dậy, cùng năm trăm Bà la môn đi đến rừng cây Kỳ Ðà, nơi đức Phật đang ngụ. Tôn giả A Nan bạch đức Phật:

–Có người con của Bà la môn tên là Át Ba La Diên, tuổi mới mười lăm, mười sáu, cùng đi với năm trăm Bà la môn đến ở bên ngoài.

Ðức Phật bảo: –Hãy mời vào.

Tôn giả A Nan đi ra mời Át Ba La Diên vào. Át Ba La Diên cùng năm trăm Bà la môn đồng đứng, không đảnh lễ đức Phật, tự nói rằng:

–Tôi có chút việc muốn hỏi đức Phật.

Ðức Phật bảo: –Hãy ngồi xuống.

Át Ba La Diên bạch đức Phật:

–Tôi có điều muốn hỏi, ngài có cho phép chăng?

Ðức Phật nói:

–Nếu có điều gì nghi thì cứ hỏi.

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Các Phạm chí nói: “Dòng tộc chúng tôi khác với dòng tộc Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư, rằng dòng tộc chúng tôi là con cháu của Phạm thiên. Tiên tổ của chúng tôi lúc sơ sinh đều sanh từ miệng Phạm thiên, khi chết đều sanh lên trời”.

Ðức Phật nói:

–Trong kinh của ta không cho rằng các chủng loại khác nhau. Nếu như người Bà la môn lấy con gái của Sát lợi, con gái của Sát lợi sẽ sanh con, người Sát lợi lấy con gái của Ðiền Gia, con gái của Ðiền Gia sẽ sanh con, người Ðiền Gia lấy con gái của Công Sư, con gái của Công Sư sẽ sanh con, người Công Sư lấy con gái của Bà la môn, con gái của Bà la môn sẽ sanh con.

Ðức Phật nói:

–Trong kinh của ta lấy hành động làm gốc. Nếu có hành động tốt đó là dòng dõi tối thượng. Những người được thiên hạ tôn quý đều do hành động thiện mà ra, chứ không phải do dòng dõi. Trong vô số kiếp về trước, ta cũng sanh làm con của người Bà la môn, cũng sanh làm con của người Sát lợi, cũng sanh làm con của Ðiền Gia, cũng sanh làm con của Công Sư, cho đến làm con của vua. Nay thân ta làm Phật.

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên:

–Ta hỏi ngươi một việc. Hãy như sự thật trả lời.

Ðức Phật nói:

–Hoặc thấy người thế gian sanh làm con của nhà lành, trở lại đi ở cho người ta. Con của người ở trở lại làm chủ chăng?

Át Ba La Diên bạch đức Phật:

–Tôi nghe trong nước Nguyệt Chi có điều này.

Ðức Phật nói:

–Vì lý do gì mà con của nhà lành trở lại đi ở, con người đi ở trở lại làm chủ? Ðó là vì tâm chí của kẻ nô tỳ làm điều thiện nên người ta cho làm con. Còn con mình mà phải làm nô tỳ là vì tâm chí nó làm điều ác vậy, nên tự bán cho người khác để làm nô tỳ vậy.

Át Ba La Diên thưa:

–Nếu Ngài nói con người có chủng loại như vậy, thế thì dòng dõi con người từ đâu sanh ra?

Ðức Phật nói:

–Nếu bốn chủng tánh là: Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, và Công Sư đều ưa sát sanh, ưa trộm cắp, ưa dâm dục, ưa nói hai lưỡi, ưa nói lời độc ác, ưa nói dối, ưa dèm pha, thích sống chung với người ngu si, thích sân hận, thích cúng tế ... làm những hành vi như vậy, có đọa vào trong địa ngục chăng?

Át Ba La Diên nói:

–Dòng dõi Bà la môn cho rằng: tuy có làm các điều ác đó nhưng chủng loại ta vẫn là tối tôn, là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng của Phạm thiên, lúc chết đều được sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Nếu có người dòng Bà la môn, Sát Lợi, Ðiền Gia, và Công Sư không có tâm sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói dối, không có tâm ưa thích sàm tấu người khác, không có tâm thích sống chung với người ngu si, không có tâm thích sân hận và cúng tế. Những người như vậy sau khi chết há không sanh lên trời chăng?

Át Ba La Diên nói:

–Ðúng như vậy, tất cả đều sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Nếu bảo chủng loại thì nó từ đâu mà có?

Ngài nói:

–Loài người đều do tâm ý thức sanh ra. Nếu tâm ý thức làm điều tốt thì được sanh lên trời, sanh ở nhơn gian. Nếu tâm ý thức mà xấu thì sanh vào loài trùng, thú, súc sanh, quỷ thần, địa ngục. Nếu có người dòng Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư làm điều ác đều phải sanh vào trong ba ác đạo. Như vậy thì dòng dõi do đâu mà ra? Người dòng Bà la môn cũng có làm điều thiện, điều ác, người Sát đế lợi cũng có làm điều thiện, điều ác, người Ðiền Gia cũng có làm điều thiện, điều ác, người Công Sư cũng có làm điều thiện, điều ác. Nếu tự nói rằng có chủng tộc, vậy chủng tộc ở chỗ nào? Nếu người Bà la môn đem lòng oán ghét hư không, người Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư cũng đem lòng oán ghét hư không, đâu có thể làm hư không bị tổn thương? Theo ý đó biết rằng: chỉ có Bà la môn tự ôm lòng cống cao trên thế gian này mà thôi. Người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư vào trong khe nước lớn để tắm, ai cũng có thể tắm sạch các cáu bẩn ở trong nước, ai có thể phân biệt được đâu là cấu uế của Bà la môn, cấu uế của Sát lợi, cấu uế của Ðiền Gia, cấu uế của Công Sư?

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Cấu uế ở trong khe nước lớn.

Ðức Phật nói:

–Nên biết cấu uế ở chỗ nào. Nếu vẫn không biết cấu uế của con người, trở lại nói rằng: “Chủng tánh của ta vốn ở trên trời, sanh ra từ miệng Phạm Thiên, còn những chủng tánh khác đều sanh ra ở dưới, dòng dõi chúng ta là tôn quý nhất trong loài người”.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, nếu có vị quốc vương nghe nói nước nào, quận nào, huyện nào, làng xóm nào có Bà la môn và con của Bà la môn cao minh, có Sát lợi và con của Sát lợi cao minh, có Ðiền Gia và con của Ðiền Gia cao minh, có Công Sư và con của Công Sư cao minh, nhà vua liền triệu tất cả về để làm vương thần, nhà vua có hỏi chủng tánh của người ấy không? Nếu người có cao tài minh đạt thì nhà vua liền cấp cho quận, nước tốt. Sao vua lại không hỏi chủng loại kẻ ấy? Nếu ngươi có nói chủng loài thì này Át Ba La Diên, nó giới hạn ở chỗ nào? Từ chỗ ngồi của các trưởng lão, phía trước các trưởng lão là năm trăm người, sao lại không tra hỏi đâu là chủng loại? Ðâu là tác sư? Nếu có chủng loại Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư và các chủng loại khác, khi lạnh thì đều đến bên đống lửa lớn. Lửa nóng đâu có sưởi ấm dành cho một chủng loại nào, hơi ấm đều bình đẳng với mọi chủng loại. Nếu có một chiếc thuyền đi trên nước, người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, hay Công Sư đều ở trên thuyền, thuyền đâu có riêng chở cho người Bà la môn, cũng đâu có riêng chở các chủng loại khác?

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên:

–Nếu con của người Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư và con của các chủng loại khác, thảy đều phải ở trong bào thai mười tháng, có thêm có bớt chăng?

Át Ba La Diên thưa rằng:

–Tất cả đều phải ở trong bào thai mười tháng không thêm không bớt.

Ðức Phật nói:

–Tại sao các ngươi cho rằng: dòng dõi của mình là con cháu của Phạm Thiên sanh ra từ miệng Phạm Thiên? Dòng Bà la môn, Sát lợi, Ðiền Gia, Công Sư cũng như các chủng loại khác. Mặt trời, mặt trăng sao lại không riêng chiếu cho một chủng loại nào? Sao lại chiếu hết các chủng loại?

Át Ba La Diên thưa:

–Chủng loại của tôi tự cho rằng chủng loại của mình hơn các chủng loại khác.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, nếu con lừa cha lấy ngựa mẹ, sanh con thì gọi là gì?

Át Ba La Diên thưa: –Gọi nó là la.

Ðức Phật bảo:

–Cha cũng không gọi là la, mẹ nó cũng không gọi là la, vậy sao gọi nó là la?

Át Ba La Diên nói:

–Bởi vì tiên tổ chúng tôi gọi nó là la, nên chúng tôi cũng gọi là la.

Ðức Phật hỏi:

–Nếu con ngựa là cha, lấy con lừa là mẹ, sanh con sao gọi nó là cự lư? Vì cha nó cũng không có tên là cự lư, mẹ nó cũng không có tên cự lư, tại sao biết nó là cự lư?

Ðáp rằng:

–Vì tiên tổ chúng tôi gọi nó là cự lư, nên chúng tôi cũng gọi là cự lư.

Ðức Phật hỏi:

–Nếu người Bà la môn lấy vợ là con gái của Sát lợi, người con gái của Sát lợi lúc sanh con, gọi nó là gì? Nên gọi nó là dòng dõi Bà la môn hay Sát lợi?

Át Ba La Diên thưa:

–Con chẳng biết nó thuộc chủng loại nào?

Ðức Phật nói:

–Nếu không tự biết chủng loại, sao gọi nó là la, là cự lư? Nếu người nữ là Sát lợi lấy chồng là Bà la môn, sanh con, khi đã sanh vào nhà này, tùy theo sự tế tự, tùy theo chủng loại, đứa bé ấy về sau thành bậc cao minh, các ngươi có thừa sự chỗ xuất sanh ấy chăng?

Thưa rằng: –Chúng tôi thừa sự.

–Nếu người Bà la môn lấy vợ là Ðiền Gia, người nữ Ðiền gia sanh con, nhưng đứa con ấy có tâm sát sanh, trộm cắp, dâm dật, nói hai lưỡi, nói lời ác độc, sân hận, có tâm cúng tế. Người có những hành vi ấy, các ngươi có tương tùy với người ấy chăng?

Thưa rằng:

–Chúng tôi không tương tùy với đứa con có tâm ý thức làm việc ác ấy. Chúng tôi sẽ trục xuất kẻ ấy ra khỏi dòng họ chúng tôi.

Ðức Phật nói:

–Nếu các ngươi tự cho rằng: Chúng ta là con cháu của Phạm Thiên, sanh ra từ miệng của Phạm Thiên, khi chết được sanh lên trời, sao các ngươi chỉ thấy tâm ý thức của kẻ ấy làm ác liền trục xuất họ ra ngoài? Tại sao các ngươi lại nói chủng loại?

Ðức Phật nói:

–Nếu có Bà la môn có sự bất hiếu với cha mẹ, thích sát sanh, trộm cướp, làm mười điều ác, lúc chết người ấy sẽ đi về đâu?

Át Ba La Diên nói:

–Người mà tâm ý thức làm những việc như vậy, lúc chết phải nhập vào địa ngục.

Ðức Phật nói:

–Nếu ngươi nói: dòng họ của ta vốn từ Phạm Thiên, sanh ra từ miệng Phạm Thiên, là tối tôn trong loài người, sao lại sanh trong địa ngục được?

Ðức Phật nói:

–Con người trong thiên hạ không có chủng loại, không có thường tồn. Bậc cao minh nhờ tâm ý chí thiện, làm điều tốt đẹp, đó là bậc tôn quý. Còn tâm ý của người làm điều ác, đó là kẻ hạ tiện.

Át Ba La Diên tự suy nghĩ: “Ta vốn không muốn đến đây, do mọi người đều bảo ta đến”. Rồi tự tư duy: “Ý của ta không muốn tranh luận với đức Phật”. Ta còn nói tiếp: “Ðức Phật là bậc chánh đạo, đức Phật nói: Nếu trước đây nói chủng loại con người thay đổi, nay lại nói rằng: tâm ý chí tốt”.

Át Ba La Diên tự suy nghĩ: “Lời của đức Phật ngăn chặn ta trước và sau”.

Ðức Phật bảo:

–Này Át Ba La Diên, vào kiếp quá khứ có bảy Bà la môn đều có đạo hạnh, ngày ngày cúng tế trời. Bảy Bà la môn này cũng nói rằng: Ta là con cháu của Phạm Thiên, chúng ta cũng sanh từ miệng Phạm Thiên, còn kẻ phàm nhơn thì sanh ở dưới. Chủng loại của ta lúc chết được sanh lên trời.

Ðức Phật nói:

–Lúc đó ta cũng là đạo nhân tên A Tuất. Mọi người đều nói: Ðạo của ta là thiện đạo. Lúc ấy ta thấy bảy Bà la môn đều đứng trước ngọn lửa đền thờ. Các Bà la môn đều nói: Chúng ta lúc chết sẽ rực sáng như ngọn lửa này ở trên trời.

Ðức Phật nói:

–“Ðể ta xem bọn người này làm gì?”. Ta tự biến đổi thân thể, tay cầm lá cờ có chuôi lông bằng vàng ròng, thân mặc đồ trắng, đi theo người trên chiếc xe giả, đến chỗ bảy Bà la môn ấy. Khi ấy bảy Bà la môn đang đi kinh hành, và cả nhóm trông thấy ta, gọi ta là “Người hành đạo Bà la môn từ đâu đến đây?”. Bảy Bà la môn nói: “Nếu ngài là Thiên đạo, xin hãy nói tóm lược cho chúng tôi: sao lại mặc y đẹp, cỡi xe, tay cầm cờ vàng rực rỡ. Ngài từ đâu sanh ra và muốn đi về đâu? Từ đâu đến? Và sao lại đến chỗ này?”.

Lúc ấy ta làm thinh không trả lời. Bọn họ thấy ta không nói, nên tất cả đều nổi giận, liền dùng thần chú đối với ta, muốn khiến cho ta đứng mà chết. Họ dùng thần chú đối với ta mà sắc mặt của ta lại đẹp. Bọn họ lại đọc chú, sắc mặt của ta lại càng thêm đẹp. Bảy Bà la môn ấy hết sức khinh hãi, nói rằng: “Những người bị chúng ta đọc chú đều chết cả, nhưng nay chúng ta đọc chú người này mà sắc mặt y lại càng đẹp hơn”.

Lúc ấy họ lại gọi “A Tuất”, tự nghĩ rằng: “Ngươi muốn về đường nào?”.

A Tuất liền đáp: “Ý của đạo chúng tôi hơn tất cả. Tại sao các ngươi nổi giận? Vậy các ngươi có nghe A Tuất nói về Thiên đạo chăng?”.

Bọn họ nói: “Chúng tôi không nghe”.

A Tuất nói: “Này hiền giả, bậc đạo nhân gặp nhau, cùng nhau thăm hỏi, sao lại tức giận?”.

A Tuất bảo: “Ta nghe các Phạm chí nói rằng: các Bà la môn trong thiên hạ là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, độc tôn trong loài người. Do vậy nên ta đến hỏi các ngươi: Nếu đốt lửa này để cúng trời, nếu thờ trời đúng như pháp thì có vị thầy nào nói ra chăng? Ðiều đó cũng không nghe tổ tiên nói ra”.

Bảy Bà la môn nói: “Tổ tiên chúng tôi làm, nên chúng tôi bắt chước”.

A Tuất đạo nhân nói: “Vậy tổ mẫu của các ngươi là con gái của Bà la môn, hay con gái của dòng họ khác?”.

–Chúng tôi không biết tổ mẫu của chúng tôi là con gái của Sát lợi, con gái của Ðiền Gia hay con gái của Công Sư. Chúng tôi không biết tiên tổ mẫu của chúng tôi có phải do người Bà la môn sanh ra hay không, hoặc các vị ấy yêu thương người khác sanh ra chủng loại chúng tôi.

A Tuất nói: “Nếu đã không biết tổ tiên, sao lại nói tổ tiên các người từ Phạm thiên sanh? Tâm lý của người nữ không có gì bảo đảm. Nếu các ngươi biết được người thế gian, vậy vợ chồng giao hợp làm sao để sanh con?”.

Bọn họ đều nói: “Chúng tôi không biết”.

–Nếu các ngươi đã không biết tổ tiên, cũng không biết con người từ đâu sanh ra, vậy sao lại sân hận ta? Phàm con người gặp nhau, trước hết phải hỏi thăm để biết cao thấp, phải biết ý chí của con người ấy rồi mới tức giận, tại sao trước tiên lại giận? Nếu biết con người lúc đầu nhập vào bào thai trong bụng mẹ, nếu không phải do lòng tham dâm của người cha, thì cũng do tâm ái dục của người mẹ mới sinh ra con. Hội đủ ba điều kiện ấy mới thành con. Ðã làm con, ai khiến cho thân trung ấm gặp cha mẹ để thành con? Ðứa con ở trong bụng mẹ hoặc đời trước làm ác thì nay ở trong bụng mẹ hoặc bị mù, hoặc bị điếc, hoặc bị ngọng, hoặc bị gù, hoặc bị kiễng chân, hoặc thành kẻ hư ác mà cha mẹ đều không biết rõ. Cha mẹ mang con ở trong bụng mà còn không biết được con mình là đẹp hay xấu thay, thì các ngươi làm sao biết được tiên tổ các ngươi là con cháu của Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiênđộc tôn trong loài người?

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên: “Ở đời trước, bảy Bà la môn này có thể chú thuật giết người. Lúc đó ta không chấp nhận lời họ nói và sách họ chép. Nay ta đã thành Phật, họ lại đến nói với ta: họ là con cháu Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, độc tôn trong loài người”.

Ðức Phật bảo Át Ba La Diên: “Hãy suy nghĩ điều ta nói: Thiên hạ sanh con nuôi lớn nhờ cha mẹ, thành người là nhờ thầy”.

Bà la môn Át Ba La Diên cùng năm trăm Bà la môn và các Bà la môn khác đồng suy nghĩ.

Ðức Phật nói: “Thời trước ta còn làm thầy của bảy Bà la môn. Bảy Bà la môn này là người đạo đức, có thể dùng chú thuật giết người. Nay ta phải phân biệt nói ra. Con người có chủng loại, một thành ra trăm, trăm thành ra ngàn, ngàn thành ra vạn, vạn cũng là một”.

Át Ba La Diên cùng các Bà la môn đồng đến phía trước, lấy đầu mặt lạy dưới chân đức Phật, nói rằng: “Chúng con không rõ một thành trăm, trăm thành ngàn, ngàn thành vạn, vạn cũng từ một là ý nghĩa gì?”.

Ðức Phật nói: “Ðó là người thế gian tham đắm sanh tử rất nhiều. Một người sanh con cháu, sau đó phân ra thành một trăm nhà, trăm nhà cầu đạo thì chỉ một đạo. Sao gọi là một đạo? Ðó là đạo vô vi vậy. Như vậy là một thành ngàn, ngàn thành vạn”.

Át Ba La Diên đến phía trước đức Phật, quỳ xuống thưa rằng: “Xin Ngài hãy thương xót chúng con, như Ngài thương các Sa môn, đừng có tâm tức giận đối với chúng con. Chúng con xin trở về cùng nhau kiểm điểm”.

Ðức Phật nói: “Lành thay!”.

–Sáng mai chúng con nguyện tịnh tâm.

Tất cả đều đứng dậy đầu mặt lạy dưới chân đức Phật rồi đi ra. 

 

PHẬT NÓI KINH

ÁT BA LA DIÊN PHẠM CHÍ VẤN CHỦNG TÔN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11618)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11925)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11096)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12056)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10750)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9936)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10161)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12339)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14316)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12085)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15324)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11152)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12547)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13150)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14780)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12650)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16530)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19627)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12239)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11823)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13478)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11933)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11832)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11620)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12751)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13598)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12878)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9853)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17997)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9059)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12158)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15286)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12193)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11455)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19664)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24573)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10670)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant