Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tu Đạt

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14695)
Kinh Tu Đạt


PHẬT NÓI KINH TU ÐẠT


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0073 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tiêu Tề, Thiên Trúc Tam tạng Cầu Na Tỳ Ðịa.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Bấy giờ cư sĩ Tu Ðạt đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn xong ngồi qua một bên. Cư sĩ Tu Ðạt ngồi qua một bên xong, đức Thế Tôn hỏi rằng:

–Này cư sĩ, gia đình cư sĩthực hành hạnh bố thí chăng?

Cư sĩ trả lời:

–Dạ có, bạch Thế Tôn, gia đình con có bố thí nhưng chỉ bố thí những thức thô xấu, không phải diệu mỹ, như cơm lẫn với cám, canh lá gai chỉ có một miếng gừng để thí.

Ðức Thế Tôn bảo:

–Này cư sĩ, dù bố thí những thức thô xấu hay bố thí những thức mỹ diệu, cả hai đều có quả báo. Nhưng này cư sĩ, nếu bố thí những thức ăn thô xấu, kẻ ấy không có lòng tinbố thí, bố thí không đúng lúc, không tự tay bố thí, không tự mình đến để bố thí, không biết, không có tín tâm cũng không biết có quả báobố thí, thì nên biết rằng sẽ thọ quả báo đúng như thế, ý không muốn cho phòng xá tốt đẹp, cũng không muốn cho áo quần tốt đẹp, cũng không muốn cho đồ ẩm thực ngon lành, cũng không muốn cho ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Người cư sĩ này vì không chí tâm bố thí và có quả báo như vậy. Này cư sĩ đó là người không chí tâm bố thí.

Này cư sĩ, người thực hành bố thí mà có tín tâm, tùy thờibố thí, tự tay bố thí, đi đến để bố thí, có tri, có tín, biết có quả báo nhân duyên mới hành bố thí. Nên biết người ấy có quả báo như vầy: Ý muốn gia đình tốt đẹp, nghiệp báo cực tốt, đồ dùng cực đẹp, áo quần cực đẹp, muốn đồ ăn, thức uống ngon lành, muốn được ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Cư sĩ nên biết, kẻ ấy chí tâm bố thí.

Này cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu nhưng không có tín tâmbố thí, không tùy thờibố thí, không tự tay bố thí, không đến để bố thí, cũng không biết cũng không tin, cũng không biết có nhân duyên hành quả báo mà thực hành bố thí, nên biết kẻ ấy sẽ thọ báo đúng như thế, ý cũng không muốn cho gia nghiệp tốt đẹp, cũng không muốn cho y phục tốt đẹp, cũng không muốn đồ ăn ngon lành, cũng không muốn ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Này cư sĩ, vì đây là không hết lòng bố thí.

Này cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu, tín tâm ưa thích bố thí, tùy thời thí, tự tay bố thí, tự mình đến để bố thí, có trí, có tín, biết có hạnh quả báo mà hành bố thí. Nên biết kẻ ấy sẽ được quả báo đúng như vậy. Ðó là tâm muốn gia nghiệp tốt đẹp, cho đến muốn đồ ăn, thức uống, ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Này cư sĩ, nên biết như vậy vì kẻ ấy tùy thời bố thí nên có quả báo ấy. Vì sao? Này cư sĩ, thuở xưa ở đời quá khứ có một bà la môn tên là Tỳ Lam, rất giàu có, của cải vô lượng, vị ấy đã làm một cuộc bố thí lớn như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn bát bằng vàng đựng đầy bạc, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn bát bằng bạc đựng đầy vàng, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn thớt voi được trang sức đầy đủ, voi trắng như tuyết, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn con ngựa được trang sức đầy đủ dây vàng xâu ngọc, thực hành đại bố thí như sau: lấy tám vạn bốn ngàn con trâu, lấy áo làm dây thừng, trâu thường cung cấp một hộc sữa, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: dùng tám vạn bốn ngàn ngọc nữ đoan chánh, đẹp đẽ, trang sức đầy đủ châu báu, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: ngoài ra còn có thức ăn mỹ vị nhiều vô số kể.

Ðó là, này cư sĩ, bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy: bố thí cho người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, nhưng phước ấy không bằng cúng thí cho một vị tiên nhơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy: thí cho nhơn tiên ở cõi Diêm Phù Ðề này, nhưng không bằng phước đức cúng cho một vị Tu Ðà Hoàn sẽ được nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy cúng thí cho người phàm phu, tiên nhơn và một trăm vị Tu Ðà Hoàn cõi Diêm Phù Ðề không bằng cúng thí cho một vị Tư Ðà Hàm, phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm, tiên nhơn, một trăm vị Tu Ðà Hoàn và một trăm vị Tư Ðà Hàm ở Diêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị A Na Hàm được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị A Na HàmDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị A La Hán được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị A La HánDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị Bích Chi Phật, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị Bích Chi PhậtDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho đức Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, bố thí cho người phàm phu,... một trăm vị Bích Chi PhậtDiêm Phù Ðề không bằng tạo lập phòng xá để cúng dường cho bốn phương tăng, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, bố thí cho người phàm phu, cho đến... tạo lập phòng xá để cúng dường cho bốn phương tăng ở cõi Diêm Phù Ðề cũng không bằng đem ý thanh tịnh thọ Tam tự quy: Phật, Pháp và Tỳ kheo Tăng giữ giới, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy, thực hành sự đại bố thí ấy, bố thí cho người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, cho đến đem ý thanh tịnh phụng hành ba tự quy: Phật, Pháp và Tỳ kheo Tăng giữ giới không bằng đối với tất cả chúng sanh cho đến loài trâu, bò trải lòng từ chỉ trong khoảnh khắc, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy thực hành sự bố thí như vậy, đối với những người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, cho đến tất cả chúng sanh phân biệt hạnh từ, kể cả thương yêu loài trâu, bò trong khoảnh khắc, không bằng đối với tất cả hành, tư duy, cho dù trong khoảng khắc thấy nó là vô thường, khổ, không, vô ngã, thì được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, ý ông nghĩ sao? Bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy là ai khác chăng? Chớ có nghĩ như vậy. Vị ấy chính là Ta vậy. Lúc ấy Ta là bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam.

Như vậy, này cư sĩ, lúc ấy ta tự làm lợi ích cho mình và làm lợi ích cho người khác, lợi ích cho nhiều người, thương xót thế gian, mong cầu ý nghĩa, khoái lạc, an ổn cho trời và người. Ta thuyết pháp như vậy nhưng vẫn chưa rốt ráo, chưa rốt ráo vô xấu, chư rốt ráo phạm hạnh, chưa rốt ráo thành tựu phạm hạnh, vì vậy lúc ấy ta chưa thoát khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu không vui, cũng chưa thoát khỏi khổ đau.

Này cư sĩ, nay ta là Như Lai xuất hiện thế gian, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, Minh hạnh thành, là Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðạo pháp ngự, Thiên nhơn sư, là Phật, Thế Tôn. Nay ta tự làm lợi ích cho mình, cũng làm lợi ích cho người khác, vì lợi ích nhiều người, thương xót người thế gian, cầu nghĩa lý, khoái lạc, an ổn cho trời và người. Nay ta thuyết pháp đến chỗ rốt ráo, rốt ráo vô cấu, rốt ráo phạm hạnh, rốt ráo hành phạm hạnh. Nên nay ta đã thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ, bất lạc. Ta đã thoát khỏi mọi khổ đau.

Ðức Phật thuyết như vậy, cư sĩ Tu Ðạt nghe đức Phật dạy xong, hoan hỷ vui mừng

PHẬT NÓI KINH TU ÐẠT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14642)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11695)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12642)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10184)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11950)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15158)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10951)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10395)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12350)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16282)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14139)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11648)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14648)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11909)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16689)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11479)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12627)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11233)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11933)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51770)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15329)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13863)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11357)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12666)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13108)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12353)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54046)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14283)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9848)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57633)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14357)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19983)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13622)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15290)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17365)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13220)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11827)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13380)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14559)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12368)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12049)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11963)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13179)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13538)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13232)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25381)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12101)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14420)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11746)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41948)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28177)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38582)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14618)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12593)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16117)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant