Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tu Đạt

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14782)
Kinh Tu Đạt


PHẬT NÓI KINH TU ÐẠT


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0073 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tiêu Tề, Thiên Trúc Tam tạng Cầu Na Tỳ Ðịa.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Bấy giờ cư sĩ Tu Ðạt đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn xong ngồi qua một bên. Cư sĩ Tu Ðạt ngồi qua một bên xong, đức Thế Tôn hỏi rằng:

–Này cư sĩ, gia đình cư sĩthực hành hạnh bố thí chăng?

Cư sĩ trả lời:

–Dạ có, bạch Thế Tôn, gia đình con có bố thí nhưng chỉ bố thí những thức thô xấu, không phải diệu mỹ, như cơm lẫn với cám, canh lá gai chỉ có một miếng gừng để thí.

Ðức Thế Tôn bảo:

–Này cư sĩ, dù bố thí những thức thô xấu hay bố thí những thức mỹ diệu, cả hai đều có quả báo. Nhưng này cư sĩ, nếu bố thí những thức ăn thô xấu, kẻ ấy không có lòng tinbố thí, bố thí không đúng lúc, không tự tay bố thí, không tự mình đến để bố thí, không biết, không có tín tâm cũng không biết có quả báobố thí, thì nên biết rằng sẽ thọ quả báo đúng như thế, ý không muốn cho phòng xá tốt đẹp, cũng không muốn cho áo quần tốt đẹp, cũng không muốn cho đồ ẩm thực ngon lành, cũng không muốn cho ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Người cư sĩ này vì không chí tâm bố thí và có quả báo như vậy. Này cư sĩ đó là người không chí tâm bố thí.

Này cư sĩ, người thực hành bố thí mà có tín tâm, tùy thờibố thí, tự tay bố thí, đi đến để bố thí, có tri, có tín, biết có quả báo nhân duyên mới hành bố thí. Nên biết người ấy có quả báo như vầy: Ý muốn gia đình tốt đẹp, nghiệp báo cực tốt, đồ dùng cực đẹp, áo quần cực đẹp, muốn đồ ăn, thức uống ngon lành, muốn được ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Cư sĩ nên biết, kẻ ấy chí tâm bố thí.

Này cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu nhưng không có tín tâmbố thí, không tùy thờibố thí, không tự tay bố thí, không đến để bố thí, cũng không biết cũng không tin, cũng không biết có nhân duyên hành quả báo mà thực hành bố thí, nên biết kẻ ấy sẽ thọ báo đúng như thế, ý cũng không muốn cho gia nghiệp tốt đẹp, cũng không muốn cho y phục tốt đẹp, cũng không muốn đồ ăn ngon lành, cũng không muốn ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Này cư sĩ, vì đây là không hết lòng bố thí.

Này cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu, tín tâm ưa thích bố thí, tùy thời thí, tự tay bố thí, tự mình đến để bố thí, có trí, có tín, biết có hạnh quả báo mà hành bố thí. Nên biết kẻ ấy sẽ được quả báo đúng như vậy. Ðó là tâm muốn gia nghiệp tốt đẹp, cho đến muốn đồ ăn, thức uống, ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Này cư sĩ, nên biết như vậy vì kẻ ấy tùy thời bố thí nên có quả báo ấy. Vì sao? Này cư sĩ, thuở xưa ở đời quá khứ có một bà la môn tên là Tỳ Lam, rất giàu có, của cải vô lượng, vị ấy đã làm một cuộc bố thí lớn như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn bát bằng vàng đựng đầy bạc, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn bát bằng bạc đựng đầy vàng, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn thớt voi được trang sức đầy đủ, voi trắng như tuyết, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn con ngựa được trang sức đầy đủ dây vàng xâu ngọc, thực hành đại bố thí như sau: lấy tám vạn bốn ngàn con trâu, lấy áo làm dây thừng, trâu thường cung cấp một hộc sữa, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: dùng tám vạn bốn ngàn ngọc nữ đoan chánh, đẹp đẽ, trang sức đầy đủ châu báu, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: ngoài ra còn có thức ăn mỹ vị nhiều vô số kể.

Ðó là, này cư sĩ, bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy: bố thí cho người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, nhưng phước ấy không bằng cúng thí cho một vị tiên nhơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy: thí cho nhơn tiên ở cõi Diêm Phù Ðề này, nhưng không bằng phước đức cúng cho một vị Tu Ðà Hoàn sẽ được nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy cúng thí cho người phàm phu, tiên nhơn và một trăm vị Tu Ðà Hoàn cõi Diêm Phù Ðề không bằng cúng thí cho một vị Tư Ðà Hàm, phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm, tiên nhơn, một trăm vị Tu Ðà Hoàn và một trăm vị Tư Ðà Hàm ở Diêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị A Na Hàm được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị A Na HàmDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị A La Hán được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị A La HánDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị Bích Chi Phật, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị Bích Chi PhậtDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho đức Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, bố thí cho người phàm phu,... một trăm vị Bích Chi PhậtDiêm Phù Ðề không bằng tạo lập phòng xá để cúng dường cho bốn phương tăng, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, bố thí cho người phàm phu, cho đến... tạo lập phòng xá để cúng dường cho bốn phương tăng ở cõi Diêm Phù Ðề cũng không bằng đem ý thanh tịnh thọ Tam tự quy: Phật, Pháp và Tỳ kheo Tăng giữ giới, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy, thực hành sự đại bố thí ấy, bố thí cho người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, cho đến đem ý thanh tịnh phụng hành ba tự quy: Phật, Pháp và Tỳ kheo Tăng giữ giới không bằng đối với tất cả chúng sanh cho đến loài trâu, bò trải lòng từ chỉ trong khoảnh khắc, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy thực hành sự bố thí như vậy, đối với những người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, cho đến tất cả chúng sanh phân biệt hạnh từ, kể cả thương yêu loài trâu, bò trong khoảnh khắc, không bằng đối với tất cả hành, tư duy, cho dù trong khoảng khắc thấy nó là vô thường, khổ, không, vô ngã, thì được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, ý ông nghĩ sao? Bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy là ai khác chăng? Chớ có nghĩ như vậy. Vị ấy chính là Ta vậy. Lúc ấy Ta là bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam.

Như vậy, này cư sĩ, lúc ấy ta tự làm lợi ích cho mình và làm lợi ích cho người khác, lợi ích cho nhiều người, thương xót thế gian, mong cầu ý nghĩa, khoái lạc, an ổn cho trời và người. Ta thuyết pháp như vậy nhưng vẫn chưa rốt ráo, chưa rốt ráo vô xấu, chư rốt ráo phạm hạnh, chưa rốt ráo thành tựu phạm hạnh, vì vậy lúc ấy ta chưa thoát khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu không vui, cũng chưa thoát khỏi khổ đau.

Này cư sĩ, nay ta là Như Lai xuất hiện thế gian, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, Minh hạnh thành, là Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðạo pháp ngự, Thiên nhơn sư, là Phật, Thế Tôn. Nay ta tự làm lợi ích cho mình, cũng làm lợi ích cho người khác, vì lợi ích nhiều người, thương xót người thế gian, cầu nghĩa lý, khoái lạc, an ổn cho trời và người. Nay ta thuyết pháp đến chỗ rốt ráo, rốt ráo vô cấu, rốt ráo phạm hạnh, rốt ráo hành phạm hạnh. Nên nay ta đã thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ, bất lạc. Ta đã thoát khỏi mọi khổ đau.

Ðức Phật thuyết như vậy, cư sĩ Tu Ðạt nghe đức Phật dạy xong, hoan hỷ vui mừng

PHẬT NÓI KINH TU ÐẠT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11632)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11957)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11104)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11342)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12554)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10764)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17975)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11725)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9946)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15337)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11999)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11183)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10603)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13168)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14837)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12676)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16571)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19661)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13521)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11947)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12764)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14514)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12613)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9863)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11163)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9078)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13044)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12186)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15309)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16608)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12214)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14267)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19698)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14149)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24606)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10680)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant